Phát động chương trình Ngôi sao thuốc Việt dành cho doanh nghiệp dược
TĐKT - Ngày 18/7, tại Hà Nội, Cục Quản lý Dược, Bộ Y tế tổ chức phát động chương trình Ngôi sao thuốc Việt lần thứ 2. Mục tiêu của Chương trình: Lựa chọn ra các sản phẩm thuốc có chất lượng, hiệu quả, giá cả hợp lý để thông tin truyền thông rộng rãi đến người dân, cán bộ y tế nhằm giúp người dân tiếp cận được với các thuốc tốt, đồng thời nâng cao nhận thức của cán bộ y tế trong việc kê đơn, sử dụng thuốc trong nước. Dây chuyền sản xuất thuốc đạt tiêu chuẩn GMP-WHO. Chương trình cũng nhằm lựa chọn các doanh nghiệp (DN) dược sản xuất trong nước uy tín, đầu tư bài bản với công nghệ hiện đại sản xuất nhiều thuốc tốt, chất lượng để biểu dương, đồng thời khuyến khích các DN tiếp tục đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại và áp dụng hệ thống quản lý tiên tiến tạo ra nhiều sản phẩm thuốc có chất lượng cao, hiệu quả. Ngoài ra, chương trình nhằm nâng cao nhận thức của người Việt Nam đối với hàng hóa trong nước nói chung và thị trường dược phẩm nói riêng, từ đó thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển mạnh mẽ từ sự ủng hộ và niềm tin của nhân dân đối với các sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong nước. Theo Ban tổ chức, Chương trình sẽ vinh danh 100 thương hiệu, bao gồm sản phẩm thuốc sản xuất trong nước và thương hiệu DN dược trong nước. Đối tượng tham gia Chương trình là tất cả các cơ sở sản xuất thuốc và sản phẩm thuốc được sản xuất tại Việt Nam. Thời gian tham gia là từ nay đến “Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2/2020”. Thời gian nhận hồ sơ tham dự đến ngày 15/8/2019. La GiangChính trị - Xã hội
TĐKT - Chiều 17/7, tại Hà Nội, Bộ Nội vụ phối hợp cùng Ban Tổ chức Trung ương, Ban Dân vận Trung ương tổ chức Hội thảo Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Ban Dân vận Trung ương Trương Thị Mai; Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân; Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Ban Tổ chức Trung ương Hà Ban, đồng chủ trì Hội thảo.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân phát biểu khai mạc Hội thảo
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân cho biết, thực hiện Kế hoạch số 02 của Ban Chỉ đạo Trung ương tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 24 ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc, với vai trò là thành viên Ban Chỉ đạo, Bộ Nội vụ được phân công, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương, Ban Dân vận Trung ương tổ chức Hội thảo chuyên đề về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số (DTTS).
Thời gian qua, Chính phủ và các bộ, ngành đã luôn quan tâm đến công tác xây dựng chính sách về đào tạo, tuyển dụng, sử dụng, nâng ngạch đối với đội ngũ công chức, viên chức là người DTTS, thực hiện việc ưu tiên cho các đối tượng là người DTTS trong thi tuyển, xét tuyển, bố trí, phân công công tác và đối với các đối tượng cử tuyển sau khi tốt nghiệp, đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS. Thực hiện các chính sách về ưu tiên tuyển dụng linh hoạt, tùy thuộc vào tình hình cụ thể của từng địa phương.
Tuy nhiên, hệ thống văn bản về công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) nói chung mặc dù được ban hành nhiều nhưng còn thiếu quy định cụ thể đối với công chức, viên chức là người DTTS.
Công tác kiểm tra và báo cáo thực hiện các chính sách chưa được chú trọng thường xuyên, nên chưa được phản ánh, kiến nghị kịp thời. Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức là người DTTS chưa tương ứng với tỷ lệ dân số là người DTTS.
Phát biểu chỉ đạo Hội thảo, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Ban Dân vận Trung ương Trương Thị Mai chỉ rõ, nước ta có 53 dân tộc anh em sinh sống trải rộng trên địa bàn 51 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, khiến cho việc áp dụng, triển khai một số chính sách gặp khó khăn, chưa phù hợp với tình hình ở một số địa phương.
Với trên 5.200 huyện và hơn 500 xã có đồng bào DTTS sinh sống, việc thực hiện chính sách với vùng đồng bào DTTS vẫn dàn trải, cần có lời giải căn cơ. Hiện nay, tỷ lệ giảm nghèo đã giảm, nhưng là giảm nghèo trong cả nước nói chung, còn với riêng vùng có đồng bào DTTS, tỷ lệ hộ nghèo vẫn cao. Do đó, một trong những nguyên nhân chính là chất lượng công tác cán bộ tại vùng có đồng bào DTTS sinh sống.
Trưởng ban Ban Dân vận Trung ương Trương Thị Mai đề nghị các cơ quan chức năng cần nghiên cứu, lý giải nguyên nhân cán bộ DTTS thường tập trung ở một số lĩnh vực trong bộ máy nhà nước mà ít có mặt ở khắp các lĩnh vực, thường tập trung ở cấp cơ sở nhưng giảm ở các cấp tỉnh và Trung ương, chưa tương xứng với tỷ lệ dân số là người DTTS. Đấy cũng chính là vấn đề trăn trở, cần nâng cao nhận thức, thống nhất hành động trong việc giải quyết vấn đề này, tháo gỡ khó khăn cho công tác cán bộ, nghiên cứu, đề xuất chính sách đặc thù để thúc đẩy các mục tiêu của Đảng về công tác dân tộc.
Về chính sách đặc thù ở đây không có nghĩa là ưu tiên, mà chính là sự bình đẳng về cơ hội, cụ thể cần mang lại cho đồng bào DTTS cơ hội để bình đẳng chứ không phải mãi là chính sách ưu tiên.
Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân thống nhất với ý kiến chỉ đạo không tiếp tục sử dụng cụm từ “ưu tiên” trong xây dựng chính sách, thay vào đó, cần có chính sách đặc thù để thúc đẩy công tác xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS “đi nhanh hơn”. Cụ thể, cần xem lại một số vấn đề, như về chính sách cử tuyển, về nguồn lực thực hiện chính sách, về công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chính sách; đặc biệt, cần dành sự quan tâm hơn nữa đối với những địa phương có tỷ lệ đồng bào DTTS cao để đưa chính sách thực sự đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả nhanh chóng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương nói riêng, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
La Giang
TĐKT - Ngày 17/7, tại Hà Nội, Bộ Nội vụ tổ chức Lễ công bố Quyết định thành lập Ban chỉ đạo, Tổ biên tập xây dựng Đề án “Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài” và Hội thảo khoa học “Chiến lược thu hút, trọng dụng nhân tài trong khu vực công”. Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân, Trưởng Ban chỉ đạo chủ trì Hội thảo.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân cho biết, thời gian qua, có nhiều bộ, ngành, địa phương đã ban hành các chính sách “trải thảm đỏ” nhằm thu hút người có tài năng về làm việc tại các cơ quan nhà nước, họ đã phát huy được năng lực, sở trường và bước đầu có những kết quả đóng góp tốt cho cơ quan, đơn vị.
Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, các chính sách này trên thực tế chưa phát huy được hiệu quả như mong muốn; các chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài còn một số hạn chế, bất cập như: Chưa có văn bản quy phạm quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành; chưa được thực hiện một cách đồng bộ, còn tùy thuộc vào khả năng của từng bộ, ngành, địa phương; các chính sách chủ yếu thu hút những người có trình độ cao về bằng cấp…
Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân phát biểu tại Hội thảo
Vì vậy, Bộ Nội vụ được giao chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương và các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng trình Chính phủ Chiến lược quốc gia thu hút, trọng dụng nhân tài theo hướng không phân biệt Đảng viên hay người ngoài Đảng, người Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài; quy định khung cơ chế, chính sách ưu đãi để phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài có trọng tâm, trọng điểm, nhất là các ngành, lĩnh vực mũi nhọn phục vụ cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.
Phó Vụ trưởng Vụ Công chức – Viên chức Lê Minh Hương công bố các Quyết định và đề cương Đề án
Tại Hội thảo, Phó Vụ trưởng Vụ Công chức – Viên chức Lê Minh Hương công bố các Quyết định của Bộ trưởng Bộ Nội vụ thành lập Ban chỉ đạo, Tổ biên tập xây dựng Đề án “Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài”; đồng thời, trình bày dự thảo đề cương Đề án “Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài”.
Theo đó, đề cương Đề án gồm 5 phần, nội dung khái quát các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thu hút, trọng dụng nhân tài; kinh nghiệm trọng dụng nhân tài của thời kỳ phong kiến ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế. Cùng với đó, đánh giá thực trạng các chính sách thu hút, trọng dụng cán bộ, công chức, viên chức ở một số đơn vị, địa phương và các nhóm giải pháp nhằm thu hút và trọng dụng nhân tài.
Mục tiêu chung của Đề án là nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về Nghị quyết số 132/NQ-CP ngày 24/10/2018 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tập trung xây đựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Kế hoạch số 10-KH/TW ngày 06/6/2018 của Bộ Chính trị thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, từ đó nâng cao chất lượng công tác chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện việc thu hút, trọng dụng nhân tài mang lại hiệu quả.
Cùng với đó, từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, tạo cơ sở pháp lý cho việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng để thu hút, trọng dụng nhân tài; góp phần xây dựng và nâng cao chất lượng, số lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tài trong các cơ quan của Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập từ Trung ương đến cơ sở.
Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân nêu bật các vấn đề đã thảo luận và một số vấn đề mới đặt ra như: Sự cần thiết phải ban hành Đề án và các quy định của Nhà nước về thu hút, trọng dụng nhân tài. Về nội dung đặt ra trong Đề án là cơ sở xây dựng thể chế để thu hút, trọng dụng nhân tài trong thời gian tới, các tham luận đã làm phong phú thêm các nội dung cũng như đưa ra các giải pháp thực hiện. Tuy nhiên, bố cục Đề án chưa được đóng góp nhiều ý kiến. Các nhóm giải pháp cần phải lấy xuất phát điểm từ mục tiêu để đưa ra cho phù hợp. Đề án cũng cần mở rộng nội dung, ngoài việc thu hút, trọng dụng cần phải có đào tạo, bồi dưỡng nhân tài.
Bên cạnh đó, khái niệm nhân tài cũng cần được làm rõ và thống nhất sử dụng; cần làm rõ hơn tại sao các chính sách của bộ, ngành, địa phương hiện nay không thu hút được nhiều nhân tài vào làm việc, trong khi đó khu vực tư lại thu hút được.
Đặc biệt, Đề án phải xác định rõ lĩnh vực nào, cấp nào ưu tiên thu hút nhân tài; ngoài các chính sách thu hút phải tạo được môi trường làm việc tốt cho nhân tài cống hiến, phát huy. Xây dựng cơ chế mở rộng quyền cho người đứng đầu trong việc tuyển dụng, sử dụng nhân tài và không giới hạn phạm vi về nhân tài, không phân biệt nhân tài khu vực công, khu vực tư, trong nước, ngoài nước.
Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân đề nghị Tổ biên tập tiếp thu ý kiến các đại biểu, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện Đề cương và sớm hoàn thành việc xây dựng Đề án để xin ý kiến Ban chỉ đạo, các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà quản lý; chuẩn bị tốt nội dung cho Hội thảo tiếp theo.
Hồng Thiết
TĐKT – Ông Lương Minh Thường, sinh năm 1959, ông là người lính Cụ Hồ và sinh ra, lớn lên tại vùng quê miền núi quanh năm đói kém tại xã Đức Thông, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng trong một gia đình nghèo khó lại đông anh em. Thời gian qua, ông đã kiên cường chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác.
Ông Lương Minh Thường vẫn chăm chỉ, lạc quan làm việc phụ giúp kinh tế gia đình
Ông Thường tâm sự, đến tuổi trưởng thành, cũng như nhiều chàng trai khác trên khắp cả nước, ông lên đường nhập ngũ để bảo vệ Tổ quốc. Sau khi hết nghĩa vụ, ông về quê xây dựng gia đình. Trong quá trình sinh sống ông là một người thân thiện và luôn giúp đỡ hàng xóm và nhân dân địa phương. Với tư chất của một người lính cụ Hồ, cộng với và vốn kiến thức khi theo học lớp bổ túc cấp 3, ông đã được nhân dân tín nhiệm bầu làm Chủ tịch xã.
Cuộc sống cứ tưởng đã trôi qua êm đềm và thuận lợi nhưng đến tháng 9 năm 2003, thấy khó chịu trong người và hàm, họng đều đau, ông đi khám tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Cao Bằng. Tại đây các bác sĩ chẩn đoán và nghi ngờ ban đầu ông có các triệu chứng ung thư vòm họng. Sau đó ông được Bệnh viện tỉnh Cao Bằng viết giấy giới thiệu lên Bệnh viện K Quán Sứ để thăm khám.
Ngày 10/11/2003, ông Lương Minh Thường được các bác sĩ tại Bệnh viện K Quán Sứ thăm khám và kết luận bị K hàm ếch và cho nhập viện ngay để mổ và điều trị. Sau khi mổ được 3 tháng các bác sĩ quyết định chuyển ông sang giai đoạn xạ trị.
Trong suốt thời gian ông Thường điều trị tại Viện K Quán Sứ, gia đình gặp vô vàn khó khăn. Hoàn cảnh lúc đấy rất éo le, vợ chồng ông sinh được 3 người con nhưng do gia đình khó khăn, các con của ông ăn uống không đủ chất nên cũng hay ốm đau. Khi vợ lên viện để chăm chồng thì phải gửi con ở nhà cho anh, em hoặc hàng xóm trông hộ, bản thân ông do lo lắng cộng với sau mổ nên sức khỏe yếu, từ một người khỏe mạnh 57kg ông trở nên gầy yếu thân hình tiều tụy chỉ còn 48kg.
Với tinh thần không khuất phục trước khó khăn của người lính cụ Hồ, cùng với sự chăm sóc và động viên của nhân viên y tế Bệnh viện K, ông đã lấy lại được tinh thần và động viên vợ con cùng vượt qua khó khăn một cách mạnh mẽ nhất.
“Sau cơn mưa trời lại sáng”, 70 mũi xạ là liệu trình ông phải trải qua trong suốt quá trình điều trị. Ngày đấy các bác sĩ thông báo cho ông biết là tiên lượng của ông rất tốt và có thể xuất viện, không niềm vui nào tả xiết ngày 14/01/2004 ông được các bác sĩ cho ra viện và chỉ định 3 tháng đi khám 1 lần.
Sau khi được ra viện về nhà ông không quản ngại bệnh tật lại tiếp tục, xây dựng kinh tế gia đình và đóng góp cho nhân dân địa phương. Trong năm đầu tiên khi đi khám 3 tháng 1 lần các bác sĩ thấy cơ thể của ông đáp ứng thuốc rất tốt và sang năm thứ 2 ông chỉ cần 6 tháng đi khám 1 lần, càng ngày sức khoẻ của ông càng tốt lên và không có dấu hiệu tái phát, sau đó các bác sĩ chỉ định ông 1 năm đi khám lại kiểm tra 1 lần.
Hiện tại ông Lương Minh Thường hoàn toàn khỏe mạnh và vẫn tham gia công việc đồng áng, cuốc đất trồng rau và tham gia công tác xã hội.
Ngày đi khám gần nhất của ông vào ngày 23/4/2019, ông không giấu được niềm vui sướng trên khuôn mặt của mình, ông chia sẻ: “Thật sự tôi chưa bao giờ hết tin tưởng vào các bác sĩ và y học hiện đại, nhờ đó mà tôi có ngày hôm nay, tôi thật sự không biết nói gì hơn bằng sự cảm ơn sâu sắc nhất đến các bác sĩ và Bệnh viện K” và ông luôn tâm niệm sâu sắc: “Hãy sống và chiến đấu bằng tất cả sức lực, niềm tin và hy vọng rồi phép màu sẽ đến với bạn!”
Bảo Hân
5 đơn vị ký kết thỏa ước lao động tập thể nhóm doanh nghiệp ngành may tại Hưng Yên
TĐKT- Chiều ngày 14/7, tại Văn Lâm, Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) tỉnh Hưng Yên tổ chức Lễ ký kết Thỏa ước lao động tập thể (TƯLĐTT) nhóm doanh nghiệp (DN) may thuộc huyện Văn Lâm. Dự Lễ ký kết có các đồng chí: Ngọ Duy Hiểu - Phó Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam; Lê Xuân Thành - Phó Cục trưởng Cục Quan hệ lao động và tiền lương, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội; Trương Văn Cẩm - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam; đại diện các cơ quan chức năng và các DN ngành may trên địa bàn huyện Văn Lâm. Đại diện các đơn vị tham gia ký kết Bà Tôn Kim Thúy – Chủ tịch LĐLĐ huyện Văn Lâm – cho biết: Một năm trước, LĐLĐ huyện Văn Lâm được lựa chọn thực hiện thí điểm Dự án về “Thúc đẩy đối thoại tại nơi làm việc và thương lượng hiệu quả trong ngành may”. Dự án được ký kết giữa Tổng LĐLĐ Việt Nam và Công đoàn Hà Lan; bắt đầu thực hiện tại 7 doanh nghiệp may trên địa bàn huyện Văn Lâm. Sau một năm thực hiện các bước, từ tuyên truyền, vận động, hướng dẫn, tập huấn cho cán bộ công đoàn, nhóm nòng cốt nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ, làm việc với lãnh đạo các doanh nghiệp và thương lượng, đã có 5/7 doanh nghiệp đồng ý ký TƯLĐTT nhóm. Thỏa ước nhóm được ký kết với 3 chương, 14 điều, trong đó có 8 điều quy định về phúc lợi cho người lao động (NLĐ): Thưởng tháng lương thứ 13 cho NLĐ có thời gian làm việc đủ từ 12 tháng trở lên. Mức thưởng ít nhất là 1 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động; tiền ăn giữa ca 16.000 đ/người/bữa (chỉ bao gồm chi phí thực phẩm); NLĐ được nghỉ thêm (ngoài thời gian nghỉ giữa giờ theo quy định của pháp luật) ít nhất 10 phút để tập thể dục với sự hướng dẫn của Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở; DN dành ít nhất 8 giờ/năm (trong giờ làm việc, có hưởng lương) để công đoàn cơ sở hoặc công đoàn cấp trên cơ sở tổ chức cho NLĐ tham gia học tập, bồi dưỡng kiến thức pháp luật. Đặc biệt, lao động nữ được hỗ trợ từ 30.000 đ - 50.000 đ/người/tháng tiền phụ nữ. 3 lợi ích còn lại là về tổ chức tham quan, du lịch, ngoại khóa nhằm nâng cao đời sống tinh thần của người lao động; tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, hỗ trợ tiền hoặc tặng quà cho người lao động nhân các ngày lễ, kỷ niệm trong năm và thưởng sáng kiến, thi đua, năng suất cho người lao động có sáng kiến, năng suất cao, đạt thành tích trong các phong trào thi đua do DN, công đoàn cơ sở phát động. Phát biểu tại Lễ ký kết, Phó Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam Ngọ Duy Hiểu ghi nhận sự nỗ lực của LĐLĐ tỉnh Hưng Yên, LĐLĐ huyện Văn Lâm, các công đoàn cơ sở; sự quan tâm, ủng hộ của các cấp chính quyền địa phương và sự hợp tác thiện chí của 5 doanh nghiệp tham gia ký kết. Việc ký kết TƯLĐTT nhóm doanh nghiệp ngành may không chỉ mang lại lợi ích cho NLĐ mà còn với cả doanh nghiệp và các cấp quản lý. NLĐ trong các doanh nghiệp tham gia thỏa ước chung sẽ ít có động cơ tự ý rời bỏ công việc hơn. Các doanh nghiệp tham gia TƯLĐTT nhóm cũng nhờ đó hạn chế được tình trạng ngưng việc, bất ổn sản xuất và cạnh tranh lao động trong ngành. Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp và nâng chất lượng lao động ngành dệt may. Theo ông Lê Xuân Thành - Phó cục trưởng Cục Quan hệ lao động và tiền lương, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, TƯLĐTT nhóm doanh nghiệp may tại huyện Văn Lâm, Hưng Yên được ký kết là cơ sở pháp lý quan trọng để người sử dụng lao động và đại diện tập thể NLĐ cam kết thực hiện tốt các nội dung được thương lượng, góp phần giảm bớt sự cạnh tranh giữa các DN về mặt lao động, tạo sự ổn định về lao động trong doanh nghiệp, góp phần ổn định tình hình sản xuất của doanh nghiệp. Ông Thành mong muốn, trong thời gian tới các DN tham gia TƯLĐTT nhóm cần cụ thể hóa nội dung hoạt động của doanh nghiệp mình, không thấp hơn TƯLĐTT nhóm, nhất là những nội dung cốt lõi trong quan hệ lao động, như tiền lương... Liên đoàn Lao động huyện Văn Lâm và CĐCS 5 doanh nghiệp giám sát việc thực hiện thỏa ước bảo đảm thực chất, hiệu quả cao. Từ đó, nhân rộng việc ký kết TƯLĐTT nhóm doanh nghiệp góp phần nâng cao hơn nữa phúc lợi cho người lao động. Thục AnhTĐKT - Ngày 12/7, tại Hà Nội, Bộ Y tế tổ chức Hội nghị tổng kết 9 năm thi hành Luật Khám bệnh, chữa bệnh (KCB). Đến dự và chỉ đạo hội nghị có PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Tiến, Bộ trưởng Bộ Y tế .
Hội nghị tổng kết 9 năm thi hành luật khám bệnh, chữa bệnh
Luật Khám bệnh, chữa bệnh được Quốc hội thông qua vào ngày 23/11/2009 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011. Đây là đạo luật đầu tiên thể chế hóa quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về khám bệnh, chữa bệnh cho nhân dân; tạo hành lang pháp lý cho hoạt động khám bệnh, chữa bệnh, đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh.
PGS.TS.Nguyễn Thị Kim Tiến, Bộ trưởng Bộ Y tế phát biểu tại Hội nghị
Phát biểu tại Hội nghị, PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Tiến, Bộ trưởng Bộ Y tế nhấn mạnh, việc ban hành Luật nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trong hoàn cảnh Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới và cũng đã tham gia một số hiệp định quốc tế trong lĩnh vực hành nghề y khoa.
Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến, bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình thực hiện Luật cũng đã có một số hạn chế, bất cập như: Một số quy định chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khả thi và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam cũng như một số nội dung chưa bảo đảm tính hội nhập quốc tế.
Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đề nghị các đại biểu tham dự Hội nghị nêu rõ những mặt đạt được, những hạn chế, bất cập của toàn bộ quá trình thi hành Luật.
Trong đó, cần lưu ý, xác định được những điều khoản, nội dung nào trong Luật gây vướng mắc, mâu thuẫn, ảnh hưởng đến hoạt động chuyên môn các thầy thuốc, nhân viên y tế. Đồng thời, nghiên cứu các nội dung cần sửa đổi cần đồng bộ với các Luật khác; xác định những nội dung hành lang pháp lý cần thiết phải ban hành nhưng chưa có trong Luật hiện tại. Các nội dung điều chỉnh, bổ sung cần đảm bảo phù hợp với quá trình quốc tế của Việt Nam.
Báo cáo tại Hội nghị, TS. Nguyễn Huy Quang, Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Y tế cho biết: Trong những năm qua, các cơ sở y tế công lập được củng cố và phát triển cả về số lượng, chất lượng và quy mô, bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống: Số cơ sở tăng nhanh, từ 11.397 cơ sở năm 1993 lên 13.541 cơ sở năm 2016, bao gồm cả phòng khám đa khoa khu vực, nhà hộ sinh, trạm y tế xã, hiện đang được sắp xếp lại cho phù hợp.
Các cơ sở y tế tư nhân có bước phát triển lớn, đóng vai trò quan trọng trong cung ứng dịch vụ y tế cho người dân. Số bệnh viện và số giường bệnh ngoài công lập tăng nhanh: Năm 2005 có 43 bệnh viện trên địa bàn của 9 tỉnh, thành phố với 3.324 giường bệnh, nay đã tăng lên 250 bệnh viện với 15.475 giường bệnh (đạt 1,7 giường/vạn dân, chiếm 15% số bệnh viện và 5,6% số giường bệnh trong toàn quốc), có khoảng gần 40.000 nhà thuốc, 35.000 phòng khám đa khoa, chuyên khoa, cung cấp 43% dịch vụ ngoại trú và 2,1% tổng số dịch vụ nội trú cho người dân (một số bệnh viện 100% vốn nước ngoài có trang thiết bị hiện đại đã được đưa vào hoạt động). Một số phòng khám bác sĩ gia đình tư nhân tham gia thực hiện chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Bên cạnh đó, thành tựu lớn nhất trong thời gian vừa qua là đã từng bước khôi phục, củng cố và phát triển được mạng lưới y tế cơ sở… Nhiều trạm y tế xã được đầu tư nâng cấp, cơ sở vật chất khang trang, 66,1% xã năm 2015 và khoảng 70% xã năm 2016 đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã…
Đặc biệt, các bệnh viện tuyến tỉnh cũng đã chú trọng phát triển các kỹ thuật cao để đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh cho người dân trên địa bàn. Nhiều kỹ thuật trước đây chỉ các bệnh viện Trung ương tuyến cuối mới thực hiện được, nhưng do đẩy mạnh đào tạo, chuyển giao kỹ thuật của tuyến trên và sự cố gắng, nỗ lực của các bệnh viện tuyến dưới, đến nay các bệnh viện tỉnh, huyện đã thực hiện được.
Trong giai đoạn tới, Bộ Y tế tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh; tổ chức tốt việc thực hiện và áp dụng pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh.
Bộ Y tế kiến nghị sửa đổi đối với một số nội dung cụ thể trong Luật Khám bệnh, chữa bệnh về các khái niệm trong Luật; về các hành vi bị nghiêm cấm; về quyền và nghĩa vụ của người bệnh; về cấp chứng chỉ hành nghề; cấp giấy phép hoạt động; các quy định chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh; về giải quyết tranh chấp trong khám bệnh, chữa bệnh; về ứng dụng công nghệ thông tin trong khám bệnh, chữa bệnh; về an ninh bệnh viện.
La Giang
Khai mạc triển lãm chuyên đề “Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày”
TĐKT – Sáng 12/7, tại Hà Nội, Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam phối hợp với Ban Quản lý Di tích Côn Đảo và Bảo tàng chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày tổ chức khai mạc triển lãm chuyên đề “Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày” nhân kỷ niệm 72 năm Ngày Thương binh – Liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2019). Hình ảnh những chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày. Triển lãm giới thiệu gần 300 tài liệu, hình ảnh, hiện vật tiêu biểu phản ánh sự hà khắc của hệ thống nhà tù thực dân, đế quốc – nơi giam giữ, tra tấn, đày ải các chiến sĩ yêu nước cách mạng Việt Nam, đây cũng là nơi tôi luyện ý chí đấu tranh cách mạng, quyết tâm giải phóng dân tộc của những người chiến sỹ cách mạng kiên trung. Những hình ảnh, tài liệu, hiện vật này được chia làm ba phần, gồm: Địa ngục trần gian; kiên trung bất khuất; ngày chiến thắng trở về. Triển lãm là sự tri ân công lao, sự hy sinh to lớn của những chiến sĩ cách mạng đã chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, góp phần tuyên truyền, giáo dục cho công chúng, nhất là thế hệ trẻ phát huy truyền thống cách mạng, hun đúc tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, quyết tâm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Trong đó, xúc động nhất là những hình ảnh: Nhà tù Hỏa Lò (1896 – 1954); Nhà tù Sơn La (do thực dân Pháp xây dựng năm 1908); Trại 7 (Phú Bình) được người tù mệnh danh là “Chuồng cọp Mỹ”; Hầm số 8 được coi là “địa ngục trần gian” tại Nhà tù Chín Hầm (Huế); Giám thị Nhà tù Côn Đảo đóng đinh vào đầu ngón tay các chiến sĩ cách mạng; “Mẹ con ngày gặp mặt” thể hiện giây phút chiến sĩ tình báo Lê Văn Thức gặp mẹ khi từ Nhà tù Côn Đảo trở về… Nội dung trưng bày tại Triển lãm còn có nhiều hình ảnh thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn, đáp nghĩa” của Đảng, Nhà nước, quân đội đối với các chiến sĩ bị địch bắt tù đày. Đây là hoạt động tri ân, tôn vinh những đóng góp to lớn, sự hy sinh anh dũng của chiến sĩ cách mạng bị địch bắt, tù đày trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; góp phần tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng cho công chúng, nhất là thế hệ trẻ, phát huy truyền thống, xây dựng ý chí quyết tâm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Phương ThanhPhối hợp và cấp cứu kịp thời bệnh nhân bị thành sắt xuyên qua gan, màng phổi.
TĐKT - Chiều 11/7/2019, kíp bác sĩ của Bệnh viện Trung ương Quân đội (TWQĐ) 108 đã phối hợp và cấp cứu kịp thời cho bệnh nhân nam bị thanh sắt xuyên qua gan, màng phổi hai bên tại Bệnh viện Quân y 105. Sức khỏe bệnh nhân ổn định sau phẫu thuật 1 ngày Bệnh nhân B.V.Q, 42 tuổi, ngã cầu thang do tai nạn lao động. Thanh sắt phi 10 xoắn đã xuyên từ bờ dưới của sườn bên phải ngang qua người, chếch lên phía trên của sườn bên trái. Các bác sĩ của Bệnh viện Quân y 105 đã tiến hành sơ cứu cho bệnh nhân. Ngay sau khi tổ chức hội chẩn liên việt, kíp bác sĩ của Bệnh viện TWQĐ 108 gồm: TS. Ngô Vi Hải – Chủ nhiệm khoa Ngoại lồng ngực, TS. Lê Văn Thành – Chủ nhiệm khoa Phẫu thuật Gan Mật Tụy đã có mặt tại Bệnh viện Quân y 105 và tiến hành phẫu thuật cho bệnh nhân. Kíp bác sĩ của Bệnh viện TWQĐ 108 đã chuẩn bị đầy đủ các trang thiết bị và các phương án cho ca phẫu thuật. TS. Lê Văn Thành – Chủ nhiệm khoa Phẫu thuật Gan Mật Tụy, Bệnh viện TWQĐ 108 chia sẻ: “Bệnh nhân bị thanh sắt xuyên qua người, qua gan có thể làm tổn thương các mạch máu lớn. Do vậy, chúng tôi đã kiểm soát các mạch máu lớn trên khu vực của thanh sắt đi qua để khi rút thanh sắt ra, nếu có chảy máu lớn thì sẽ kiểm soát được ngay lập tức.” Hình ảnh thanh sắt xuyên qua người bệnh nhân B.V.Q Rất may mắn, khi các bác sĩ rút thanh sắt ra, cho thấy thanh sắt đâm xuyên từ thành ngực phải qua góc sườn hoành, xuyên qua gan hạ phân thùy 6 đi lên phía trên của hạ phân thùy 4, đi sát bờ sau của tĩnh mạch chủ dưới rồi xuyên qua cơ hoành khoang màng phổi bên trái ra thành ngực trái. TS. Lê Văn Thành chia sẻ thêm: “Thanh sắt không làm rách tĩnh mạch gan, tĩnh mạch chủ, có đứt một số tĩnh mạch nhỏ, động mạch nhỏ đã được khâu lại.” TS. Ngô Vi Hải – Chủ nhiệm khoa Ngoại lồng ngực, Bệnh viện TWQĐ 108 cho biết: “Chúng tôi đã tiến hành mở ngực bên trái để kiểm tra và may mắn, không thấy tổn thương tim, nhu mô phổi. Sau đó, chúng tôi đã đặt dẫn lưu khoang màng phổi hai bên cho bệnh nhân.” Ca phẫu thuật diễn ra trong 2 tiếng đồng hồ. Sau phẫu thuật 1 ngày, sức khỏe của bệnh nhân ổn định. Đại tá, BSCKII Trần Văn Hà – Phó Giám đốc Bệnh viện Quân y 105 gửi lời cảm ơn đến các bác sĩ Bệnh viện TWQĐ 108 đã phối hợp cấp cứu bệnh nhân kịp thời. Sự phối hợp, hỗ trợ của Bệnh viện TWQĐ 108 và Bệnh viện Quân y 105 sẽ nâng cao chất lượng khám và điều trị cho người bệnh. Lan HươngTĐKT - Ngày 11/7, Tổng cục Thống kê tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc công bố kết quả sơ bộ cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019. Theo đó, dân số Việt Nam ở thời điểm 0 giờ ngày 1/4/2019 là 96.208.984 người.
Phát biểu tại Hội nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ cho biết cuộc tổng điều tra dân số vào tháng 4/2019 có quy mô lớn nhất từ trước đến nay và có kết quả sơ bộ được công bố nhanh chóng so với năm 2009. Đây cũng là lần đầu tiên Tổng cục Thống kê ứng dụng công nghệ thông tin vào thực hiện các quy trình thu thập, tổng hợp và xử lý số liệu.
Đồng bằng sông Hồng vẫn là khu vực kinh tế - xã hội có đông dân cư nhất
Với kết quả này, Việt Nam là quốc gia đông dân thứ 15 thế giới và xếp thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á, chỉ sau Indonesia và Philippines. So với kết quả điều tra năm 2009, xếp hạng dân số Việt Nam trong Đông Nam Á không đổi và giảm 2 bậc trên bảng xếp hạng dân số thế giới.
Về cơ cấu giới tính của dân số Việt Nam, nam giới có 47.881.061 người (chiếm 49,8%) nữ giới là 48.327.923 người (chiếm 50,2%).
Sau 10 năm, dân số Việt Nam tăng thêm 10,4 triệu người, tỷ lệ tăng giai đoạn 2009 - 2019 bình quân 1,14%/năm, giảm nhẹ so với giai đoạn 10 năm trước.
Kết quả cuộc Tổng điều tra cũng cho thấy: Việt Nam là nước có mật độ dân số cao so với các nước trên thế giới và khu vực. Năm 2019, mật độ dân số Việt Nam là 290 người/km2. Hà Nội và TP Hồ Chí Minh có mật độ dân số đông nhất, tương ứng là 2.398 và 4.363 người/km2. Đồng bằng sông Hồng là khu vực tập trung dân cư lớn nhất cả nước, trong khi Tây Nguyên là nơi có ít dân cư sinh sống nhất.
Trong 10 năm qua, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng. Tuy nhiên, dân số khu vực thành thị là hơn 33 triệu người, mới chiếm 34,4%, dân số nông thôn vẫn chiếm tới 65,6%.
Trong tổng số 26,9 triệu hộ dân cư trên cả nước, vẫn còn 4.800 hộ không có nhà ở. Hầu hết dân cư Việt Nam đang sống trong các ngôi nhà kiên cố hoặc bán kiên cố (chiếm hơn 93%). Diện tích nhà ở bình quân đầu người là 23,5 m2/người, trong đó cư dân thành thị có diện tích nhà ở cao hơn cư dân nông thôn.
"Kết quả sơ bộ Tổng điều tra năm 2019 cho thấy trải qua 10 năm, quy mô dân số nước ta tăng chậm hơn so với giai đoạn 10 năm trước. Điều kiện nhà ở của các hộ dân cư được cải thiện rõ rệt, đặc biệt ở thành thị. Hầu hết các hộ dân cư đều có nhà ở và sống trong các loại nhà kiên cố và bán kiên cố; diện tích nhà ở bình quân đầu người tăng lên đáng kể, sát với mục tiêu Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 do Thủ tướng Chính phủ ban hành", ông Nguyễn Bích Lâm, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê nhận định.
Bản đồ phân bố dân cư của các tỉnh thành
Cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở toàn quốc được tổ chức 10 năm một lần. Năm nay là lần thứ 5 diễn ra Tổng điều tra, thực hiện từ ngày 1/4 đến ngày 25/4/2019. Do áp dụng các biện pháp công nghệ thông tin nên chỉ sau hơn 2 tháng kết thúc thu thập thông tin, công tác xử lý dữ liệu đã hoàn thành, sớm hơn khoảng 1 năm so với cuộc Tổng điều tra năm 2009.
Phát biểu tại buổi lễ công bố kết quả Tổng điều tra, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ cho biết, những số liệu kết quả điều tra dân số và nhà ở phải làm cơ sở để hoạch định chính sách. Phó Thủ tướng lưu ý, mặc dù chúng ta đang trong tình trạng dân số vàng nhưng cũng đang trong tình trạng già hóa nhanh chóng, các chính sách dân số phải làm sao tránh được tình trạng "chưa giàu đã già". Mục tiêu của cuộc Tổng điều tra là Không để ai bị bỏ lại phía sau, do đó cần có chính sách phù hợp với những đối tượng khó khăn tại khu vực nông thôn, những người chưa có nhà ở hoặc nhà ở thiếu kiên cố. Từ nay đến khi công bố số liệu chính thức, Tổng cục Thống kê cần có những bảng phân tích, đánh giá số liệu để có kiến giải chính sách phù hợp, bởi kết quả Tổng điều tra không chỉ là những con số.
Dự kiến, vào ngày 20/12 (tức ngày Dân số Việt Nam), số liệu chính thức của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở sẽ được công bố.
La Giang
Lần đầu tiên thực hiện thành công kỹ thuật khoan sang thương động mạch vành bị vôi hóa nặng
TĐKT - Bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ vừa thực hiện thành công kỹ thuật khoan sang thương động mạch vành bị vôi hóa nặng (ROTABLATOR) trong quá trình đặt stent mạch vành. Các bác sĩ Bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ thực hiện kỹ thuật khoan sang thương động mạch vành bị vôi hóa nặng Bệnh nhân là ông T.P.Đ, 55 tuổi, địa chỉ: Ninh Kiều, Cần Thơ được chuyển đến bệnh viện trong tình trạng đau ngực khi gắng sức, mệt, khó thở. Sau khi kiểm tra, bác sĩ cho biết ông bị hẹp động mạch vành 2 nhánh từ 60% - 90%, tuổi cao và các bệnh kết hợp nội khoa nghiêm trọng như: Nhồi máu cơ tim cũ, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, đái tháo đường không phụ thuộc insulin. Bên cạnh đó, khoảng 60 mm nhánh liên thất trước lan tỏa, đường kính mạch máu bị hẹp 90% kèm vôi hóa nặng, rất khó để thực hiện đặt stent thường quy. Các bác sĩ phải dùng một đầu mũi khoan có cấu tạo đặc biệt bằng kim cương rất nhỏ đưa vào lòng mạch vành, đến vị trí vôi hóa khoan với vận tốc 170.000 – 180.000 vòng/phút nhằm tái thông lòng mạch, sau đó mới thực hiện kỹ thuật nong bóng và đặt stent mạch vành. Kỹ thuật thực hiện thành công sau 2 giờ do Ths.Bs. Trần Văn Triệu – khoa Tim mạch can thiệp với sự hỗ trợ về mặt chuyên môn của GS. TS. Võ Thành Nhân – Chủ tịch Hội Tim mạch can thiệp TP Hồ Chí Minh. Bác sĩ Triệu cho biết: Với một số trường hợp bệnh nhân có nhiều bệnh nội khoa kết hợp như: Tăng huyết áp, rối loạn lipit máu, đái tháo đường không phụ thuộc insulin… động mạch vành bị vôi hóa nặng là một trong những trường hợp khó đặt stent trong bệnh lý động mạch vành, thủ thuật viên không thể đưa dụng cụ qua được sang thương để tái thông lòng mạch. Kỹ thuật khoan sang thương động mạch vành bị vôi hóa nặng là kỹ thuật chuyên sâu, được thực hiện lần đầu tiên tại Bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ cũng như khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Trước đây, những trường hợp tương tự phải chuyển đến TP Hồ Chí Minh và nay kỹ thuật này đã được thực hiện tại miền Tây, mở ra hy vọng mới trong cứu sống bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim. La GiangTrang
- « đầu tiên
- ‹ trước
- …
- 214
- 215
- 216
- 217
- 218
- …
- sau ›
- cuối cùng »





















