BTĐKT - Gần 10 năm qua, 30 thầy cô giáo ở Trung tâm Hải Đăng, An Việt (15 ngõ Yên Ninh, phường Ba Đình, TP Hà Nội) vẫn âm thầm khơi nguồn cảm xúc, thắp sáng hi vọng cho hàng trăm đứa trẻ tự kỷ, chậm nói, rối loạn ngôn ngữ, tăng động giảm chú ý, chậm phát triển trí tuệ, down, bại não... Họ được ví như những ngọn hải đăng âm thầm giữa biển khơi, ngày đêm tỏa sáng để dẫn lối cho những tâm hồn bé nhỏ giữa thế giới rộng lớn này. Họ cũng là những người gieo mầm hi vọng cho những trái tim tưởng chừng đóng kín.
Gõ cửa những tâm hồn khép kín
Bắt đầu một ngày mới đối với 90 trẻ em tự kỷ, chậm nói, rối loạn ngôn ngữ, tăng động giảm chú ý, chậm phát triển trí tuệ, down, bại não ở Trung tâm Hải Đăng và Trung tâm An Việt là bài học “tự xưng” để “khai mở” cảm xúc của các em mỗi sáng.
Bé Lưu Trần Thức (tên bé đã được thay đổi), cậu bé 10 tuổi có khuôn mặt bầu bĩnh, khôi ngô, đôi mắt đen láy ngước nhìn thầy giáo Nguyễn Xuân Huy. Giọng em yếu ớt nhỏ nhẹ: “Thức”. Em chỉ nói như thế rồi nhìn xuống nền nhà. Giọng thầy Huy ân cần: “Con phải nói, thưa thầy con tên là Thức chứ. Con nói lại đi”. Vân vê ngón tay, bé Thức nhìn thầy Huy vẫn giọng có phần mạnh mẽ hơn: “Thức” rồi chạy ra chỗ những đứa trẻ khác.
Hồng Anh, cậu thanh niên 22 tuổi bị mắc bệnh vô thức. Hồng An gọi được tên mẹ, thầy cô, biết ánh sáng, biết tự ăn cơm, nhưng cũng sẵn sàng nói tục và “hành hung” người khác khi không vừa ý mình. Biết Hồng Anh ưa nịnh, thích được khen đẹp nên các thầy cô lúc nào cũng “chiều chuộng đặc biệt” nhưng cũng khá nghiêm khắc khi cậu nói tục, làm sai, không nghe lời.
Một buổi học vận động của các em tự kỷ, chậm nói, rối loạn ngôn ngữ tăng động, giảm chú ý, chậm phát triển trí tuệ, down, bại não ở Trung tâm Hải Đăng
Phó Giám đốc Trung tâm Nguyễn Xuân Huy cho biết, Trung tâm Hải Đăng tiền thân là Trung tâm An Việt có cùng một giám đốc điều hành hiện cư ngụ tại 15 ngõ Yên Ninh, phường Ba Đình, Hà Nội. Nhiệm vụ chính của 2 trung tâm là can thiệp và trị liệu trẻ tự kỷ, chậm nói, rối loạn ngôn ngữ, tăng động giảm chú ý, chậm phát triển trí tuệ, down, bại não. Hiện có 90 học sinh ở độ tuổi 2 - 45 với 3 cơ sở đào tạo, chia thành đối tượng giáo dục khác nhau. Đối với học sinh lớn, ngoài “chữa lành căn bản” còn phát triển hướng nghiệp cho các em. Dạy các em có kỹ năng nghề để có thể làm việc kiếm sống. Đối với các em ở “lớp nhỡ” dạy theo phương pháp chuyên biệt quản lý hành vi. Đối tượng giáo dục khó nhất là các em ở lứa tuổi từ 9 đến 14 tuổi - đây là đối tượng cần can thiệp sớm để các em nhận biết thế giới xung quanh, hòa nhập cộng đồng, tự mình vệ sinh cá nhân, biết gọi tên bố, tên mẹ, các thầy cô giáo, biết cảm nhận được tình thương yêu của gia đình thầy cô dành cho mình...
Các em được thực hành gấp những con thuyền bằng giấy với khát vọng vươn ra biển lớn và đứng dậy hòa nhập cộng đồng
Thầy Huy chia sẻ, 90 học sinh là 90 hoàn cảnh khác nhau, nhưng tất cả đều rất đáng thương. Em Hồ Đức Hiếu bị chậm phát triển. Bố em vào tù vì nghiện ma túy, em ở với bà nội. Trước khi em vào Trung tâm Hải Đăng, thế giới của em là căn phòng nhỏ tối om và làm bạn với bốn bức tường. Bạn của em là những cái ghế, cái bàn vô tri vô giác. Em có thể đứng nhìn xa xăm hàng giờ mà không nói câu nào. Mắt lúc nào cũng buồn, vô định. Từ ngày đến trung tâm được hòa nhập với các bạn, Đức Hiếu đã nhận biết được thế giới xung quanh, gọi được hai tiếng bà nội, biết tên thầy cô giáo, khóc khi tủi hờn, giận khi bạn trêu chọc, biết hát khi có âm nhạc nổi lên.
Em Hồ Vinh Quang, một trong nhiều đứa trẻ “không nhận thức” vì bệnh chậm phát triển. Em có hoàn cảnh đáng thương. Bố là thương binh nặng, mẹ mắc bệnh tâm thần. Do gia đình khó khăn nên Quang vào trung tâm khá muộn. Từ một cậu bé “hoàn toàn vô thức”, sau 8 năm được các thầy cô ở Trung tâm An Việt dạy dỗ, em đã hòa nhập được cộng đồng và làm “trợ giảng” cho các thầy cô. Hai triệu đồng Quang nhận được đều đặn từ trung tâm là “quả ngọt” từ sự nỗ lực không ngừng của em. Cuộn gói trong đó là hành trình gian khổ của các thầy cô giáo. “Giờ đây em hoàn toàn có thể tự lo cho mình, từ vệ sinh, tắm giặt. Em đã hòa nhập cộng đồng, trở thành người khá bình thường. Em đã tự nuôi sống mình từ lương hỗ trợ của trung tâm”, Quang tự hào chia sẻ.
Lớp học không vách ngăn
Để tạo cho các em hiểu biết về thế giới rộng lớn, cảm nhận về không gian, thời gian, đánh thức mọi giác quan cảm xúc, tư duy, vận động, Trung tâm Hải Đăng, An Việt đã lập chương trình “lớp học không vách ngăn” với mục đích cho các em “thả lỏng tư duy, khơi mở các “điểm nghẽn dị biệt” vốn đã “cố hữu bẩm sinh”. Nhờ có “lớp học không vách ngăn” này mà các em đã “bắt sóng” được với nhau, tìm ra sự đồng điệu về nhận thức, bắt chước nhau để làm những việc có ý nghĩa mà các em thích.
Một giờ học chế biến thức ăn của học sinh tự kỷ tại Trung tâm Hải Đăng
Giám đốc Trung tâm, Thạc sĩ tâm lý học Bùi Văn Khánh cho biết: Hằng năm, nhà trường luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các em đi dã ngoại từ 4 đến 5 lần. Một lần đi dã ngoại bằng cả tháng giáo dục tại trung tâm. Thông qua những lần đi như thế, các em thật sự được “đánh thức cảm xúc” vốn đã “lẩn trốn” nhiều năm. Thông qua chương trình “biển hè vui bên nhau” ở bãi biển Sầm Sơn, Thanh Hóa, “trải nghiệm ong vàng” ở Phú Xuyên, Hà Nội, các em đã mạnh dạn nói, cười hành động có ý thức hơn. “Bình thường các em rất ít nói, có khi cả ngày không nói câu nào. Có em sợ bóng tối, sợ tiếng động, em sợ chỗ đông người, nhưng khi âm nhạc nổi lên, các em bắt nhịp được thế giới riêng của nó, nhảy múa, hát tưng bừng. Sinh hoạt tập thể cộng đồng này, giúp các em đánh thức được cảm xúc, nhận biết được thế giới xung quanh một cách tích cực”, thầy Khánh chia sẻ.
“Chỉ cần có tình yêu thương, chắc chắn sẽ tìm ra cách”
Thầy cô giáo ở Trung tâm Hải Đăng và Trung tâm An Việt có 30 người, đều trẻ tuổi. Đến làm việc ở đây không phải vì lương cao, mà vì thương những đứa trẻ bằng tuổi con, tuổi em của họ bị khiếm khuyết đặc biệt. Ngoài được trang bị kiến thức căn bản về nuôi, dạy chăm sóc trẻ tự kỷ, rối loạn ngôn ngữ, tăng động giảm chú ý, chậm phát triển trí tuệ, down, bại não, các thầy cô còn được trung tâm lựa chọn rất kỹ càng về đạo đức và lương tâm nghề nghiệp.
Giám đốc Trung tâm Hải Đăng Bùi Văn Khánh dạy trẻ tự kỷ tình yêu thương
Cô giáo Minh Anh hơn 3 năm qua gắn bó Trung tâm Hải Đăng là ngần ấy thời gian ngày ngày trên chiếc xe máy cũ vượt 15 km từ Hoài Đức (Hà Nội) đến trung tâm làm việc. Không ít khó khăn, nhọc nhằn, không ít tủi thân, tổn thương do các em gây ra tưởng chừng không vượt qua, song cứ mỗi lần nhìn ánh mắt đứa trẻ tự kỷ nhìn xa xăm vô định về một nơi nào đó, mỗi lần nghe các em kêu hai tiếng “mẹ ơi” là Minh Anh không cầm lòng được.
Từ bỏ những công việc thuận lợi, Minh Anh để đến Trung tâm Hải Đăng để dạy các em tự kỷ bằng trái tim và tình thương yêu vô bờ bến. “Ngày đầu tiên bước vào nghề, khi còn bỡ ngỡ với mọi thứ và đang tập làm quen với các bạn nhỏ, mình đã cảm thấy hoang mang, áp lực và đôi lúc bất lực trước những khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua. Lúc ấy, một người chị đã nói với mình một câu khiến mình ghi nhớ mãi đến tận hôm nay: “Chỉ cần có tình yêu thương, chắc chắn sẽ tìm ra cách”. Mình đã tìm ra cách dạy, cảm hóa các em học sinh từ tình yêu thương ấy”, cô giáo Minh Anh chia sẻ.
Giữa những gam màu ồn ào của cuộc sống, ở Trung tâm An Việt - Hải Đăng, Giám đốc Bùi Văn Khánh vẫn lặng thầm như ngọn đèn nhỏ, soi sáng thế giới riêng của những đứa trẻ tự kỷ, rối loạn cảm xúc. Mỗi ngày, thầy kiên nhẫn ghép từng con chữ, chỉ từng đồ vật, dỗ dành từng tiếng cười, lau từng giọt nước mắt. Hàng trăm lần thầy bế những em bé vào lòng chỉ để em bớt sợ hãi, bớt lạc lõng giữa cuộc đời. “Nhìn các em, thương lắm… Nếu một em là con của mình thì sao đây?”, thầy trầm ngâm. Rồi thầy nói như gửi gắm: “Chỉ có tình yêu thương thực sự mới đủ sức mở cánh cửa, dẫn các em bước ra, hòa vào vòng tay của cuộc sống”.
Lặng lẽ cùng con
90 đứa trẻ ở Trung tâm Hải Đăng và Trung tâm An Việt, là 90 hoàn cảnh điều kiện khác nhau. Nhưng bố mẹ của các cháu đều có một niềm đau chung đeo bám suốt cuộc đời. Với họ, ngày nối ngày âm thầm lặng lẽ hi sinh đồng hành cùng con với một hi vọng mong manh con mình hết bệnh, trở lại với cuộc sống đời thường như bao đứa trẻ khác.
Chị Nguyễn Thị Lan Anh ở tỉnh Thanh Hóa, 10 năm nuôi con bị bệnh tự kỷ biết bao đắng cay, tủi nhục. Có lúc chị tưởng chừng gục ngã. Nhiều đêm thức trắng âm thầm khóc một mình vì thương con, thương mình. “Khóc nhiều cũng chẳng giải quyết được gì. Khi biết con bệnh tự kỷ, vợ chồng tôi đã đưa con đi nhiều nơi chữa trị nhưng không mấy khả quan. Từ ngày con tôi vào Trung tâm Hải Đăng, từ một đứa trẻ vô thức gần như hoàn toàn, đã biết gọi mẹ Lan, bố Hạnh, biết tên mình là Cường, biết gọi tên thầy cô giáo, biết tự ăn, tự đi vệ sinh. Trước đó, những việc này là không thể. 10 năm đồng hành cùng con, 10 năm khóc, 10 năm lặng lẽ âm thầm, nhưng tôi chưa bao giờ bỏ cuộc. Vì tôi hiểu, con tôi có khác biệt nhưng cũng không đơn độc, khác biệt nhưng vẫn nguyên vẹn yêu thương”, chị Lan Anh nói.
Rời Trung tâm Hải Đăng - An Việt, hình ảnh người thầy lặng lẽ bên chiếc bàn học nhỏ, phía trước là đôi mắt thơ ngây của một đứa trẻ đang tập phát âm từng tiếng một khiến tôi chạnh lòng rơi nước mắt.
Ngoài kia nắng vàng vẫn trải dài, ồn ào, vội vã. Nhưng nơi đây, có một thứ ánh sáng khác - ánh sáng của tình người, của niềm tin và hy vọng đang sưởi ấm những tâm hồn bé bỏng.
Tuấn Cường