Điển hình tiên tiến

Nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi thu tiền tỷ từ chăn nuôi gà đẻ trứng

TĐKT - Với tinh thần ham học hỏi, dám nghĩ dám làm, ông Nguyễn Văn Đường là một trong những tấm gương điển hình trong phong trào Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xóa đói, giảm nghèo và làm giàu chính đáng của thị trấn Hương Sơn, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Với mô hình chăn nuôi gà mái đẻ và ấp nở gia cầm, gia đình ông thu về lợi nhuận mỗi năm trên 2,7 tỷ đồng. Ông Nguyễn Văn Đường vận hành dây chuyền tự động cấp thức ăn cho gà Phú Bình là huyện trung du, miền núi nằm ở phía Nam của tỉnh Thái Nguyên, nhân dân chủ yếu sống bằng nghề nông. Mặc dù công nghiệp đang phát triển, song tỷ lệ lao động nông nghiệp vẫn chiếm số lượng lớn. Huyện có nhiều điều kiện thuận lợi để sản xuất về nông nghiệp, đặc biệt là chăn nuôi gia súc, gia cầm; đường giao thông đi lại cơ bản thuận lợi; nhân dân có truyền thống lao động cần cù, năng động, sáng tạo, vượt khó vươn lên. Ông Nguyễn Văn Đường cho biết: “Qua 5 năm thực hiện phong trào thi đua “Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững”, chúng tôi hết sức tâm đắc, qua đây mọi người thi đua nhau tăng gia sản xuất; người nghèo thì cố gắng làm ăn vươn lên thoát nghèo, người khá thì đủ ăn, đủ mặc và cố gắng phát triển kinh tế mạnh mẽ hơn.” Ông Đường gắn bó với nghiệp buôn trứng từ cách đây hơn 30 năm. Ngày ấy, chỉ với chiếc xe cà tàng cũ kỹ, ông rong ruổi khắp làng trên xóm dưới trong huyện chở trứng thuê cho các cơ sở ấp nở gia cầm. Dần dần, thấy đây là một nghề cho thu nhập khá, ông bắt đầu đi buôn trứng, nhập số lượng lớn và giao lại cho các cơ sở ấp nở. Đến năm 2004, được Hội Nông dân thị trấn Hương Sơn tạo điều kiện cho đi học tập kinh nghiệm thực tế, tín chấp cho vay 50 triệu đồng từ Ngân hàng Chính sách Xã hội huyện, vay thêm từ người thân, bạn bè, ông mạnh dạn mở một lò ấp gia cầm với công suất 6.000 - 8.000 quả trứng. Để chăn nuôi có hiệu quả, ông cũng đã đăng ký các lớp tập huấn kiến thức về quy trình chọn giống bố mẹ và cách phòng, chống dịch bệnh, vệ sinh cho gia cầm… do Hội Nông dân và các cơ quan chuyên môn của huyện tổ chức. Hiện nay, mô hình chăn nuôi gà mái đẻ và ấp nở gia cầm của gia đình ông có quy mô 2 chuồng nuôi với diện tích 1.200 m2, được thiết kế hoàn toàn tự động, có hệ thống giàn mát điều chỉnh nhiệt độ mỗi chuồng, nuôi 6.000 gà đẻ/chuồng, tỷ lệ đẻ đạt 75%. Mỗi ngày gia đình ông thu khoảng 4.500 quả trứng, bình quân một tháng khoảng 13.000 quả. Quy mô 28 lò ấp nở gia cầm, công suất 15.000 trứng/lò, một năm ấp khoảng 5,24 triệu quả trứng gà lai chọi, gà mía, số lượng gà giống xuất ra thị trường khoảng 4,25 triệu con/năm. Theo ông Đường, việc lựa chọn con giống phải được tuyển chọn kỹ càng, đảm bảo chất lượng và kiểm soát dịch bệnh chặt chẽ thì tỷ lệ nở mới cao, con giống có khỏe mạnh thì khi đưa ra thị trường mới có uy tín và được chấp nhận. Lợi nhuận gia đình ông thu được hàng năm sau khi đã trừ chi phí khoảng 2,74 tỷ đồng/năm, thu nhập bình quân 685 triệu đồng/người/năm. Ngoài việc tập trung cho phát triển sản xuất, kinh doanh, ông và gia đình thường xuyên giúp đỡ các hộ khó khăn về giống và vốn. Trong 5 năm 2015 - 2020, gia đình ông đã tạo điều kiện cung cấp con giống, hỗ trợ về tiền vốn không lấy lãi với tổng số tiền hơn 2,8 tỷ đồng cho 34 hộ gia đình. Đồng thời, hỗ trợ cho 17 hộ chăn nuôi gặp khó khăn về vốn để mua con giống và xây dựng chuồng trại trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, với tổng số tiền là 1,19 tỷ đồng, không lấy lãi. Ông còn  giúp cho 7 hộ nghèo tại địa phương vay không lấy lãi số tiền hơn 1,5 tỷ đồng để làm nhà ở. Với quy mô sản xuất của gia đình, trong những năm qua, ông đã tạo thêm việc làm thường xuyên có mức thu nhập ổn định cho khoảng 13 - 15 lao động với lương bình quân 6 triệu đồng/người/tháng; tạo việc làm cho 25 - 30 lao động theo mùa vụ với tiền công 5 - 5,5 triệu đồng/người/tháng. Không chỉ làm kinh tế giỏi, gia đình ông còn luôn chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, gương mẫu thực hiện và tuyên truyền đến mọi người dân cùng thực hiện tốt nội quy, quy ước của địa phương; luôn đoàn kết thống nhất và đề xuất với tổ dân phố làm tốt công tác vận động, tuyên truyền thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, công tác bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã hội và pháp luật về giao thông. Ông tích cực tham gia các phong trào thi đua của địa phương và luôn đi đầu trong các phong trào như: Tết vì người nghèo, ủng hộ quỹ vì người nghèo và nạn nhân chất độc da cam, quỹ nhân đạo, quỹ khuyến học, ủng hộ quỹ hạnh phúc người mù, phòng, chống dịch bệnh Covid-19 và quỹ hỗ trợ nông dân; ủng hộ các tỉnh miền Trung bị xâm ngập mặn; vận động quỹ tôn tạo các di tích lịch sử Hội Nông dân, các loại quỹ do địa phương phát động hàng năm từ 15 - 17 triệu đồng. Với những kết quả ấy, năm 2015, ông đã được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen trong phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi; năm 2017, 2019 được Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam và Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên tặng Bằng khen; năm 2019 được công nhận danh hiệu “Nông dân Việt Nam xuất sắc”. Đồng thời được tặng nhiều Giấy khen của Chủ tịch UBND huyện Phú Bình. Nguyệt Hà    

Hợp tác xã Nông nghiệp Bù Gia Mập: Tiên phong xây dựng thương hiệu nông nghiệp sạch ở Bình Phước

TĐKT - Xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị cho hạt điều Bình Phước và nông sản sạch thông qua việc liên kết phát triển mô hình trồng, chế biến điều, nông sản chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu là giải pháp hữu hiệu được Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp Bù Gia Mập áp dụng thời gian qua. Vườn điều Organic của HTX Bà Trần Thị Yến, Giám đốc HTX Nông nghiệp Bù Gia Mập cho biết: HTX được thành lập ngày 22/8/2016 gồm 64 thành viên với tổng diện tích 294,9 ha điều. Với ngành nghề sản xuất kinh doanh là trồng, chế biến, xuất khẩu hạt điều theo tiêu chuẩn organic, HTX Nông nghiệp Bù Gia Mập đã tổ chức sản xuất trồng và cải tạo với mục đích làm tăng năng suất và chất lượng của vườn điều, khai thác tiềm năng đất đai tại địa phương, giải quyết công ăn việc làm cho nhiều hộ dân, đặc biệt là người dân vùng đồng bào dân tộc. Bên cạnh đó, HTX kinh doanh dịch vụ trồng, thu mua, chế biến, xuất khẩu nông sản, cung cấp phân bón và các loại vật tư dùng trong nông nghiệp, đặc biệt là cho cây điều. Trên cơ sở thành viên tự nguyện tham gia cùng nhau góp vốn, tổ chức sản xuất kinh doanh, bảo vệ môi trường, HTX góp phần cải thiện đời sống cho thành viên và lao động, góp phần phát triển kinh tế địa phương. Hiện HTX đã có 136 hộ thành viên với diện tích là 543,8 ha được công nhận đạt chuẩn organic. “Sản xuất điều hữu cơ, các thành viên HTX chấp nhận năng suất thấp hơn, công chăm sóc nhiều hơn, nhưng bù lại sẽ có giá bán tốt hơn, được doanh nghiệp bao tiêu toàn bộ sản phẩm và có chứng nhận. Tỷ lệ sản phẩm của thành viên HTX được bao tiêu sản phẩm đầu ra đạt trên 70%.”- bà Yến chia sẻ. Cũng theo bà Yến, trong quá trình chăm sóc cây điều hòa toàn không sử dụng hóa chất độc hại, ảnh hưởng đến môi trường sống, không để tồn dư thuốc bảo vệ thực vật trên nông sản. Lợi ích của việc trồng điều sạch này là việc thích ứng với biến đổi khí hậu, năng suất cao và có tiền phúc lợi khi xuất khầu điều, tạo điều kiện hỗ trợ kinh tế hộ và xây dựng chuẩn kết nối trồng điều từ sản xuất đến tiêu thụ. HTX còn phối hợp với Liên hiệp hợp tác xã Điều Bình Phước cung ứng 380 lít phân bón lá của Công ty Việt - Mỹ cho các thành viên kịp thời xử lý trong giai đoạn ra hoa, đậu quả. Để có đầu ra cho sản phẩm, HTX ký kết hợp đồng với công ty, doanh nghiệp và tổ chức thu mua vào đầu mùa vụ hàng năm. Trong đó công ty Xuất khẩu điều Việt Hà là đơn vị liên kết theo chuỗi giá trị. Hiện tại HTX có 14 điểm đại diện thu mua được bố trí ở các thôn Bù Lư, Bù Dốt, Bù La, Bù Nga, Đắk Á. “Giá cả tại thời điểm thu mua: Đối với Điều organic cao hơn giá thị trường là 1.000 đồng/kg. Sau vụ mùa, công ty bù thêm giá 500 đồng/kg cho nông dân. HTX cũng ký hợp đồng tiêu thụ mua điều thô với một số công ty như: Công ty Việt Hà, Công ty Phúc An, Công ty Thiên Đức... Chị Đào Thị Thơ, một thành viên của HTX Nông nghiệp Bù Gia Mập chia sẻ: Gia đình chị có gần 2 ha điều. Nhận thấy việc tham gia vào HTX được hưởng nhiều lợi ích và đảm bảo đầu ra cho sản phẩm nên gia đình chị tự nguyện xin vào HTX từ năm 2011. Từ khi vào HTX đến nay, chị nhận được nhiều lợi ích như tư vấn khoa học – kỹ thuật, hướng dẫn cách bón phân, cách sử dụng thuốc trừ sâu không ảnh hưởng tới nông sản và không gây ô nhiễm môi trường… Từ đó, năng suất cao hơn rõ rệt so với khi chưa vào HTX. Những thành công của HTX trong những năm qua đã cho thấy, HTX đang vững bước trên con đường phát triển theo hướng bền vững và đây là mô hình HTX cần được nhân rộng trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Bên cạnh những kết quả đạt được, HTX Nông nghiệp Bù Gia Mập vẫn còn gặp nhiều khó khăn như: Trình độ nhận thức của thành viên HTX không đồng đều; trong lĩnh vực sản xuất, chăm sóc, đại đa số bà con nông dân làm theo ý tự phát… chưa tuân thủ chặt chẽ các quy trình do đã quen sản xuất theo phương pháp truyền thống; giá cả thấp, không ổn định do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19; đầu ra cho sản phẩm mặc dù đã có hợp đồng thu mua nhưng chưa có tính bền vững, vì phải phụ thuộc vào sự phát triển của đơn vị bao tiêu đầu ra… Chia sẻ về định hướng phát triển của HTX trong thời gian tới, bà Yến cho biết: Chúng tôi sẽ xây dựng HTX liên kết theo chuỗi giá trị bền vững, sản xuất hữu cơ theo tiêu chuẩn Organic. HTX đặt quyết tâm nâng cao sản lượng, chất lượng, ổn định giá cả hợp lý theo thị trường, đồng thời vận động các nhóm điều tập thể tham gia thành lập tổ hợp tác để làm mô hình điểm của HTX Nông nghiệp Bù Gia Mập. HTX cũng sẽ vận động các hộ thành viên có vườn điều già, năng suất thấp cải tạo bằng phương pháp lai ghép hoặc trồng điều giống mới năng suất cao… Với những thành công của HTX trong những năm qua, năm 2017, 2018, HTX Nông nghiệp Bù Gia Mập đã được Liên minh HTX tỉnh công nhận là “Hợp tác xã điển hình tiên tiến”; năm 2019 được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tặng Bằng khen. Bảo Linh

Vươn lên thoát nghèo từ nuôi tôm

TĐKT - Sinh ra trong gia đình thuần nông, khởi nghiệp chỉ có vài công đất nhưng nhờ chịu khó học hỏi, cần cù trong lao động, anh Huỳnh Deo (ấp Giồng Giữa B, xã Vĩnh Trạch Đông, TP Bạc Liêu) có mức thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm, cuộc sống ngày càng khá giả. Anh Deo bên mô hình nuôi tôm của gia đình Cũng như nhiều nông dân khác, gia đình hai bên đều khó khăn nên khi có gia đình riêng, cha mẹ cho được 2 công đất và cũng là tài sản duy nhất để anh Deo lập nghiệp. Chia sẻ về thời gian khó khăn đó, anh Deo cho biết: Sau khi lập gia đình, nghĩ cuộc sống của cha mẹ đã nghèo thì bây giờ mình phải quyết tâm làm ăn để cuộc sống đỡ vất vả. Từ suy nghĩ đó, với diện tích đất làm vốn, tôi bắt đầu học hỏi kỹ thuật nuôi tôm. Ban đầu do thiếu vốn sản xuất, vay mượn khắp nơi được số vốn ít ỏi, anh Deo cũng đầu tư nuôi tôm nhưng với quy mô nhỏ. Những năm khi mới bắt đầu nuôi tôm, do chưa có kinh nghiệm về kỹ thuật nên anh gặp nhiều khó khăn. Không những không thu được lợi nhuận mà thậm chí anh còn bị lỗ vốn. Tuy nhiên, điều đó không làm anh Deo nản lòng mà càng khiến anh có quyết tâm thoát nghèo hơn. Vậy là anh đã tự học hỏi kỹ thuật nuôi tôm qua báo, đài. Đặc biệt, anh tích cực tham gia các lớp tập huấn, hội thảo về sản xuất, nuôi tôm do hội nông dân xã phối hợp tổ chức. Hầu hết các lớp chuyển giao khoa học kỹ thuật do ngành chức năng tổ chức, anh Deo đều tham dự đầy đủ. Thông qua các lớp học đó, anh Deo đã học hỏi được nhiều kiến thức về nuôi tôm và áp dụng vào mô hình của gia đình. Từ đó nuôi tôm năm nào cũng đạt hiệu quả. Nhờ sự cần cù, chịu khó và tiết kiệm trong chi tiêu nên cuộc sống gia đình anh Deo ngày càng khá giả. Có vốn tích lũy, anh mua thêm đất và tiếp tục đầu tư mở rộng diện tích nuôi tôm. Trung bình mỗi năm anh thu lãi từ 200 - 300 triệu đồng. Thành công từ mô hình nuôi tôm công nghiệp, anh Deo mở rộng đầu tư nuôi cua, cá phi và đang dự tính nuôi thêm cá đối mục, bước đầu đã cho thu nhập. Nhờ chi tiêu hợp lý, anh đã xây dựng căn nhà khang trang, với đầy đủ tiện nghi. Thu nhập ổn định, vợ chồng anh có điều kiện chăm lo cho các con ăn học đến nơi đến chốn. Không chỉ phát triển kinh tế gia đình, anh Deo còn tích cực tham gia các hoạt động xã hội do địa phương phát động. Anh sẵn sàng đóng góp nhiều ngày công lao động cùng với địa phương vệ sinh môi trường, trồng cây xanh làm hàng rào xanh trước nhà, chỉnh trang nhà cửa gọn gàng, ngăn nắp… nhằm góp phần xây dựng nông thôn mới tại địa phương. Bên cạnh đó, anh còn sẵn sàng chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm, kỹ thuật về chăn nuôi, sản xuất cho những nông dân trong ấp Giồng Giữa B có nhu cầu phát triển kinh tế gia đình, cải thiện cuộc sống. Những việc làm của anh Deo trong những năm qua đã được nhiều bà con nông dân trong ấp Giồng Giữa B và trên địa bàn xã Vĩnh Trạch Đông tin yêu và quý trọng. Nhờ cần cù, chịu khó và chí thú làm ăn, từ một gia đình khó khăn, nhà cửa tạm bợ, giờ đây gia đình anh Huỳnh Deo trở thành một trong những hộ dân khá giả trên địa bàn xã Vĩnh Trạch Đông. Anh thật sự là tấm gương điển hình trong vượt khó, thoát nghèo và vươn lên làm giàu ở địa phương. Tuệ Minh

Thi đua gắn liền với nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kiểm toán

TĐKT - Với trách nhiệm là Kiểm toán trưởng Kiểm toán Nhà nước (KTNN) chuyên ngành VI, trong các năm từ 2015 đến 2019, anh Nguyễn Anh Tuấn đã lãnh đạo, chỉ đạo đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ do Tổng KTNN giao. Anh và lãnh đạo đơn vị đã nghiêm túc quán triệt trong đơn vị các chỉ đạo của Tổng KTNN về việc siết chặt kỷ luật, kỷ cương, nâng cao đạo đức công vụ, tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng thông qua hoạt động kiểm toán. Đồng thời, tích cực triển khai, thực hiện các giải pháp nâng cao ý thức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên. Nhờ đó, từ năm 2015 đến nay, KTNN chuyên ngành VI không phát hiện các trường hợp vi phạm Quy chế tổ chức và hoạt động của đoàn kiểm toán, Quy tắc ứng xử của kiểm toán viên nhà nước trong ứng xử với đơn vị được kiểm toán.   Anh Nguyễn Anh Tuấn (thứ 3 từ phải sang) được tuyên dương tại Hội nghị điển hình tiên tiến KTNN chuyên ngành VI giai đoạn 2020 - 2025. Từ năm 2015 đến 2019, anh đã lãnh đạo, chỉ đạo đơn vị thực hiện 60 cuộc kiểm toán, gồm 37 cuộc kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC), 11 cuộc kiểm toán kết quả tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp (GTDN) để cổ phần hóa, 12 cuộc kiểm toán chuyên đề, hoạt động. Qua hoạt động kiểm toán, các đoàn kiểm toán do KTNN chuyên ngành VI thực hiện đã kiến nghị xử lý tổng số kiến nghị kiểm toán là 45.239 tỷ đồng, trong đó số kiến nghị tăng thu ngân sách Nhà nước (NSNN) là 21.182 tỷ đồng, kiến nghị tăng vốn nhà nước khi cổ phần hóa 12.227 tỷ đồng, kiến nghị xử lý về đầu tư xây dựng cơ bản 8.739 tỷ đồng, kiến nghị khác 3.091 tỷ đồng. Một số đoàn kiểm toán có kết quả kiến nghị xử lý cao như đoàn kiểm toán tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam BCTC năm 2018 kiến nghị nộp NSNN 5.487 tỷ đồng, năm 2014 kiến nghị nộp NSNN 4.021 tỷ đồng; đoàn kiểm toán tại Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam năm 2016 kiến nghị nộp NSNN 2.054 tỷ đồng; đoàn kiểm toán tại Công ty TNHH MTV Lọc hóa dầu Bình Sơn kiến nghị tăng vốn nhà nước 4.586 tỷ đồng; đoàn kiểm toán hoạt động đầu tư xây dựng của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam kiến nghị xử lý 6.362 tỷ đồng. Ngoài ra, qua kiểm toán, các đoàn kiểm toán do KTNN chuyên ngành VI chủ trì đã đưa ra có 39 kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung văn bản; 113 kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện cơ chế chính sách. Đặc biệt chuyển 3 bộ hồ sơ sang cơ quan cảnh sát điều tra để làm rõ một số sai phạm có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Đồng thời, các đoàn kiểm toán đã có nhiều phát hiện quan trọng, chỉ ra các tồn tại, thiếu sót trong công tác quản lý để kiến nghị đơn vị được kiểm toán kịp thời chấn chỉnh nhằm nâng cao công tác quản lý, quản trị hiệu quả nguồn lực nhà nước tại doanh nghiệp. Trong công tác kiểm tra tình hình thực hiện kiến nghị kiểm toán, anh đã lãnh đạo, chỉ đạo đơn vị tổ chức lập kế hoạch hàng năm trình Tổng Kiểm toán nhà nước phê duyệt và tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra thực hiện kiến nghị với nhiều nỗ lực, quyết tâm cao và phương pháp phù hợp, được các đơn vị được kiểm tra đồng tình và phối hợp thực hiện. Kết quả tình hình thực hiện kiến nghị của các đơn vị được kiểm toán thời gian vừa qua cho thấy tính hiệu quả, hiệu lực của việc thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN chuyên ngành VI rất cao: Tổng số thực hiện kiến nghị kiểm toán giai đoạn 2015 - 2018 là 35.515 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 92,21%. Dưới sự lãnh đạo của anh, về cơ bản, đội ngũ lãnh đạo cấp vụ, cấp phòng của KTNN chuyên ngành VI đã được kiện toàn, phát huy được vai trò trong công tác quản lý; chất lượng cán bộ, công chức của Kiểm toán nhà nước chuyên ngành VI có trình độ chuyên môn tốt, đồng đều, đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ. Đơn vị có 2 cán bộ công chức có trình độ tiến sĩ, 50 cán bộ, công chức có trình độ thạc sĩ, còn lại các cán bộ công chức là cử nhân và kỹ sư, trong số đó có 2 công chức đã có Chứng chỉ kế toán công chứng Anh (ACCA). Là Ủy viên Hội đồng Nghiên cứu Khoa học KTNN, anh đã có nhiều ý kiến đóng góp với Hội đồng Nghiên cứu Khoa học KTNN về kế hoạch nghiên cứu khoa học, danh mục đề tài, kết quả nghiên cứu, để công tác nghiên cứu khoa học của KTNN ngày càng nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả. Mặt khác, anh thường xuyên quan tâm, khích lệ, động viên cán bộ, công chức trong chuyên ngành chủ động đăng ký tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học gắn với thực tiễn kiểm toán để đưa ra những giải pháp giải quyết những vấn đề phát sinh trong hoạt động kiểm toán. Trong giai đoạn 2015 - 2020, các đề tài nghiên cứu khoa học do cán bộ, công chức của KTNN chuyên ngành VI đã được nghiệm thu và ứng dụng vào thực tế, phục vụ có hiệu quả cho công tác kiểm toán của đơn vị, làm cơ sở khoa học và thực hiện để KTNN sử dụng ban hành quy trình, quy định trong hoạt động kiểm toán. Cá nhân anh là chủ nhiệm Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Tổ chức kiểm toán đối với doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở xuống” được KTNN nghiệm thu đạt kết quả xuất sắc. Với cương vị là Bí thư Đảng ủy Bộ phận KTNN chuyên ngành VI, anh đã lãnh đạo, chỉ đạo công tác chuẩn bị nhân sự cấp ủy theo đúng các chỉ thị của Bộ Chính trị, Hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương và Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương và Đảng ủy KTNN, nhân sự được giới thiệu đã đảm bảo các tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, cơ cấu, độ tuổi, có năng lực, uy tín, nhiệt tình trong công tác. Hàng năm, anh đã lãnh đạo, chỉ đạo đơn vị ban hành và thực hiện tốt Quy chế phối hợp giữa Đảng ủy bộ phận với Lãnh đạo KTNN chuyên ngành VI và các tổ chức đoàn thể; tổ chức đoàn thể phát huy tốt vai trò của mình, tập hợp đông đảo lực lượng tham gia các hoạt động, thường xuyên đổi mới về nội dung và có chiều sâu. Các hoạt động có ý nghĩa thiết thực, có nhiều phong trào thi đua sôi nổi, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao vào các dịp ngày lễ lớn của đất nước và của ngành, đã động viên đoàn viên hoàn thành tốt nhiệm vụ với hiệu quả, chất lượng cao. Anh cùng đơn vị tổ chức các hoạt động xã hội thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, tương thân, tương ái “lá lành đùm lá rách”, như: Xây dựng nhà tình nghĩa, tổ chức thăm hỏi và tặng quà gia đình chính sách nhân dịp tết cổ truyền và các đợt phát động của ngành, tổ chức thăm hỏi các gia đình có thân nhân liệt sĩ, dâng hương dâng hoa tại các nghĩa trang liệt sĩ; đóng góp ủng hộ đồng bào các vùng bị thiên tai lũ lụt; động viên khen thưởng kịp thời các đoàn viên có thành tích; tổ chức thăm hỏi, động viên kịp thời những đoàn viên ốm đau, có hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống... Đặc biệt, trên cơ sở quy định, hướng dẫn của Đảng ủy KTNN về chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh đối với ngành KTNN, anh đã lãnh đạo, chỉ đạo đơn vị xây dựng bộ chỉ tiêu đánh giá việc thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phù hợp với đặc điểm, tình hình hoạt động của đơn vị. Định kỳ 6 tháng và cuối năm, căn cứ Bản đăng ký và đánh giá của đảng viên, công chức được các chi bộ trực thuộc và các chi bộ sinh hoạt tạm thời tại các đoàn kiểm toán xem xét, đánh giá và xếp loại; Đảng ủy bộ phận tổ chức đánh giá mức độ hoàn thành và xếp loại đối với mỗi đảng viên, công chức trong việc thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Năm 2019, anh cùng với tập thể cấp Ủy đã tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW biểu dương, khen thưởng 6 tập thể và 7 cá nhân tiêu biểu. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của anh, KTNN chuyên ngành VI đã đạt được nhiều thành tích tự hào thông qua các phong trào thi đua yêu nước từ 2015 – 2019.  Anh đã được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương, Bằng khen của Tổng KTNN, 1 lần được KTNN tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp ngành, 5 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, 1 lần được Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương tặng danh hiệu“Đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”. Trang Lê  

Nặng lòng với công tác trẻ em ở tỉnh Đồng Tháp

TĐKT - Là người nặng lòng với công tác trẻ em, bà Lê Thị Phiến, Trưởng Phòng Trẻ em - Bình đẳng giới, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Đồng Tháp không chỉ thường xuyên nghiên cứu, tham mưu đề xuất những sáng kiến, giải pháp hiệu quả trong công tác phối hợp triển khai thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Bà còn luôn đồng cảm, ân cần chia sẻ; sẵn sàng tìm mọi nguồn lực trong khả năng nhiệm vụ để kết nối cung cấp các dịch vụ cần thiết nhất đến gia đình trẻ em cần trợ giúp.   Là Trưởng Phòng Trẻ em - Bình đẳng giới, những năm qua, bà đã tham mưu thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực trẻ em và bình đẳng giới. Đặc biệt, bà chú trọng việc tham mưu trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết quy định mức thù lao và giao nhiệm vụ cho nhân viên y tế khóm, ấp kiêm nhiệm quản lý, bảo vệ chăm sóc trẻ em, mỗi khóm ấp 2 người; tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành quyết định kiện toàn Ban Điều hành Bảo vệ trẻ em cấp tỉnh và chỉ đạo đồng bộ cấp huyện, cấp xã kiện toàn, thành lập mới Ban Điều hành cấp huyện và Ban Bảo vệ trẻ em cấp xã; triển khai Luật trẻ em. Các chương trình, kế hoạch, mô hình, dự án về bảo vệ, chăm sóc trẻ em lan tỏa rộng khắp, các dịch vụ cung cấp hỗ trợ cho trẻ em được xã hội hóa, thu hút nhiều sự quan tâm của cộng đồng xã hội. Bà đã phối hợp phát triển tốt dịch vụ bảo vệ trẻ em theo 3 cấp độ phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp góp phần giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trong tỉnh nhận được sự trợ giúp, chăm sóc để phục hồi, tái hòa nhập và có cơ hội phát triển đạt trên 93% theo kế hoạch. Các vụ việc vi phạm quyền trẻ em được quan tâm, sớm phát hiện và kịp thời can thiệp xử lý. Các quyền cơ bản của trẻ em được tôn trọng và đáp ứng. Số trường hợp trẻ em bị xâm hại thân thể, nhân phẩm có chiều hướng giảm. Bà đã tham mưu thực hiện chức năng, nhiệm vụ cơ quan thường trực Ban Điều hành Bảo vệ trẻ em của tỉnh; phối hợp triển khai tăng cường công tác phòng ngừa, giảm thiểu các yếu tố nguy cơ không an toàn cho trẻ em và giám sát hệ thống bảo vệ trẻ em các cấp hoạt động ngày càng hiệu quả. Tiếp tục duy trì phát huy hiệu quả dự án “Thúc đẩy và bảo vệ quyền trẻ em” và “Hỗ trợ người chưa thành niên vi phạm pháp luật dựa vào cộng đồng” do Unicef hỗ trợ tại 33 xã, phường thuộc huyện Cao Lãnh và thành phố Cao Lãnh; tiếp nhận dự án “Hỗ trợ triển khai các can thiệp hiệu quả và bền vững về phòng, chống đuối nước cho trẻ em” thực hiện tại 15 xã thuộc huyện Tam Nông, Lấp Vò, Lai Vung, Châu Thành. Bà Lê Thị Phiến đang chia sẻ tại Hội nghị tập huấn về bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ ngành giáo dục Đồng Tháp năm 2020 Thời gian qua, bà đã tham mưu tập trung nhiều giải pháp đẩy mạnh công tác truyền thông về bảo vệ trẻ em tận khóm ấp với nhiều hình thức như thiết kế mẫu “Áp phích hình ảnh và thông điệp về bảo vệ trẻ em” phát rong truyền thông tư vấn nhóm cho gia đình và trẻ em ở cộng đồng, trường học, mang ý nghĩa giúp mọi thành viên trong gia đình nâng cao trách nhiệm bảo vệ trẻ em, luôn chú ý quan tâm đến trẻ em hơn. Hàng năm, bà đều có những giải pháp tuyên truyền nâng cao trách nhiệm phòng, chống tai nạn đuối nước trẻ em trong toàn tỉnh, điển hình như: Tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức “Hội nghị trực tuyến chuyên đề về phòng, chống tai nạn đuối nước trẻ em” và phát thanh trực tiếp trên hệ thống loa đến khóm, ấp cộng đồng dân cư, tuyên truyền các giải pháp tác động trực tiếp đến các ngành, các cấp trong hệ thống bảo vệ trẻ em; tổ chức 126 lớp tập huấn về pháp luật bảo vệ trẻ em và kiến thức phòng, chống tai nạn đuối nước trẻ em cho cha mẹ, người trực tiếp nuôi dưỡng trẻ với trên 6.300 người tham gia; truyền thông tư vấn trực tiếp cho 17.987 hộ gia đình và tổ chức 198 buổi sinh hoạt chuyên đề; truyền thông dưới cờ cho trên 12.000 học sinh tại 48 trường tiểu học, trung học cơ sở và tổ chức Hội thi “Về kỹ năng an toàn trong môi trường nước” với hình thức trực tuyến, từ đường link có 16.773 học sinh tham gia. Thông qua các hoạt động từ dự án “Hỗ trợ triển khai các can thiệp hiệu quả và bền vững để phòng, chống đuối nước trẻ em”, bà đã tham mưu triển khai lồng ghép áp dụng trong phạm vi toàn tỉnh các hoạt động điển hình như: Xin chủ trương Ủy ban nhân dân tỉnh phối hợp với các sở, ngành tổ chức Lễ phát động phòng, chống đuối nước trẻ em cấp tỉnh, huy động 1.100 đại biểu học sinh và công chức, viên chức ngành tỉnh, huyện tham dự. Chương trình nội dung buổi lễ được truyền thanh trực tiếp trên hệ thống loa đến khóm, ấp, tạo được sức lan tỏa rộng rãi trong cộng đồng. Qua đó góp phần nâng cao nhận thức của cha mẹ và người chăm sóc trẻ em, của cộng đồng, của chính quyền, đoàn thể các cấp về công tác phòng, chống đuối nước trẻ em. Tổ chức 123 lớp dạy bơi có 2.460 em biết bơi, 120 lớp tập huấn kiến thức, kỹ năng an toàn trong môi trường nước cho 6.000 học sinh các trường tiểu học và trung học cơ sở; 30 lớp tập huấn cho 978 gia đình, người chăm sóc trẻ em dưới 5 tuổi về biện pháp phòng, chống đuối nước trẻ em nhằm hạn chế các yếu tố nguy cơ gây đuối nước trẻ em tại gia đình, cộng đồng. Hiệu quả mang lại không còn tình trạng trẻ em sau giờ học rủ nhau đến chơi gần môi trường không an toàn, giúp người dân nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong việc phòng ngừa đuối nước ở trẻ em dưới 6 tuổi, góp phần giảm số trẻ em dưới 6 tuổi bị đuối nước xuống 47%, góp phần giảm 24 trẻ em bị đuối nước qua các năm trong giai đoạn. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, bà luôn luôn đồng cảm, ân cần chia sẻ, cảm thông với hoàn cảnh gia đình vấn đề của trẻ em; sẵn sàng tìm mọi nguồn lực trong khả năng nhiệm vụ để kết nối cung cấp các dịch vụ cần thiết nhất đến gia đình, trẻ em cần trợ giúp; thường xuyên nghiên cứu, tham mưu đề xuất những sáng kiến, giải pháp hiệu quả trong công tác phối hợp triển khai, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ chăm sóc trẻ em hàng năm đạt và vượt chỉ tiêu so với kế hoạch. Ngoài tham mưu triển khai các nhiệm vụ chuyên môn, bà luôn học tập thông qua các lớp tập huấn kỹ năng, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp, từ các tỉnh bạn để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn; điều hành, phân công giao việc luôn công tâm, khách quan và sắp xếp công việc khoa học; luôn nêu gương, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống giản dị, thân thiện, gần gũi với mọi người. Những sáng kiến, tham mưu đề xuất của bà về nhiều giải pháp áp dụng trong lĩnh vực phụ trách đã thu hút được sự phối hợp tích cực của các ngành, các cấp, mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần hoàn thành nhiệm vụ đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch hàng năm của đơn vị. Đồng thời, bà luôn kêu gọi, khuyến khích, động viên đồng nghiệp, cá nhân, tập thể tích cực đăng ký tham gia các phong trào thi đua của ngành phát động và luôn gắn với nhiệm vụ chuyên môn nhằm giúp cho công chức, viên chức trong phòng phát huy tính năng động, sáng tạo nhằm tạo khí thế sôi nổi trên tất cả các lĩnh vực của ngành. Bà là một trong những điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua yêu nước giai đoạn 2016 – 2020 của ngành Lao động, Thương binh và Xã hội. Mai Thảo

Làm giàu từ trồng cây ăn quả

TĐKT - Lựa chọn mô hình trồng cây ăn quả, phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng tại địa phương, ông Lê Văn Đông, ấp Long Trị (xã Bàng Long, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang) đang tạo được nguồn thu nhập cao, ổn định và từng bước vươn lên trở thành hộ giàu. Gia đình ông Đông có 10.000 m2 đất, trước đây ông trồng các loại cây có múi. Nhưng theo ông Đông, do giá cả bấp bênh, thu nhập không cao, công lao động lại vất vả. Nhưng với bản chất chăm chỉ, cần cù, chịu thương, chịu khó, ông quyết tâm tìm ra hướng đi mới cho vườn cây của gia đình. Năm 2003, sau khi tự tìm hiểu nhiều thông tin, ông Đông đã chuyển đổi sang trồng sầu riêng và cây sú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim. Thời gian đầu khi trồng, 2 loại cây này còn nhỏ nên ông trồng xen cây ngắn ngày để có thu nhập chờ cây chủ lực. Sau 4 năm trồng, vườn cây nhà ông bắt đầu cho trái ổn định, doanh thu khoảng 150 triệu đồng/năm.  Tuy nhiên theo ông Đông, mặc dù có lợi nhuận nhưng chi phí chăm sóc, phân bón, thuốc phòng ngừa sâu bệnh khá cao khiến ông cũng gặp nhiều khó khăn. Đến năm 2008, sau những buổi tham gia lớp tập huấn do Sở Khoa học và Công nghệ của tỉnh Tiền Giang phối hợp với địa phương tổ chức, ông Đông học tập được nhiều kiến thức, phương pháp áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật với quy trình sản xuất mới. “Chúng tôi được hướng dẫn sản xuất cây ăn quả theo trình Globalgap. Tham gia lớp học, tôi được hướng dẫn các phương pháp tỉa cành, tạo tán, bón phân, xịt thuốc, đến bao trái, bảo vệ môi trường để tạo ra được những sản phẩm sạch và an toàn”.- Ông Đông chia sẻ. Nhờ áp dụng những kiến thức được học, sản phẩm từ vườn cây của gia đình ông được tiêu thụ trong và ngoài nước, xuất khẩu đem lại hiệu quả kinh tế cao. Từ đó thu nhập gia đình ông được cải thiện. Thu nhập từ 220 – 300 triệu đồng/năm. Với những thành công bước đầu đó, năm 2013, ông Đông đã nắm bắt thị hiếu thị trường và quyết định thay đổi 2 loại cây chủ lực và chuyển sang trồng dừa và mít siêu sớm. Đến nay, vườn cây ăn quả của ông Đông rất đa dạng. 2 loại cây mới đang phát triển tốt và cho thu hoạch. Do tìm tòi, học hỏi và nắm chắc kỹ thuật, quy trình chăm sóc nên cây ăn quả của gia đình ông ngày càng phát triển, ít bị sâu bệnh. Hiện tại thu nhập bình quân mỗi năm từ vườn cây ăn trái của ông đạt trên 300 triệu đồng. Đặc biệt, trong đợt hạn mặn kỷ lục của đồng bằng sông Cửu Long vừa qua, ông đã tìm phương án mới cho vườn cây của gia đình với việc đặt số lượng bưởi long núm, là một trong những loại cây chịu hạn, mặn tốt, trồng xen cùng những cây ảnh hưởng do hạn mặn. Không chỉ chăm lo phát triển kinh tế gia đình, bằng những kinh nghiệm có được trong quá trình trồng cây ăn quả, ông Đông luôn sẵn lòng chia sẻ, giúp đỡ về kỹ thuật, cây giống… để bà con trong thôn có điều kiện phát triển kinh tế. Ông còn là Chủ tịch Hội Người cao tuổi của xã, là một cán bộ luôn gương mẫu đi đầu trong các phong trào của địa phương, đặc biệt là phong trào xây dựng nông thôn mới. Trong những năm qua, ông Đông cùng gia đình đã xây dựng cây cầu Phước Lộc trị giá 110 triệu đồng. Ngoài ra, ông còn phối hợp với chính quyền địa phương vận động xây dựng 3 căn nhà tình nghĩa, mỗi căn trị giá 50 triệu đồng và hàng trăm phần quà cho các hộ có hoàn cảnh khó khăn, cũng như hỗ trợ về vốn và cây giống. Với những đóng góp tích cực mình, ông Đông đã được các cấp khen thưởng. Riêng năm 2019, ông Lê Văn Đông vinh dự đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba vì có thành tích xuất sắc trong phong trào nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi. Tùng Chi  

Sáng kiến, sáng tạo xuất phát từ thực tiễn

TĐKT – Nhờ có khoảng thời gian nhiều năm gắn bó với hiện trường, nắm bắt rõ những khó khăn thực tế, đào sâu suy nghĩ ngay trong quá trình làm việc hàng ngày... nên hàng loạt vấn đề khó khăn, vướng mắc về kỹ thuật trong quá trình vận hành máy móc tại Công ty TNHH MTV Cảng Hoàng Diệu đã được anh Nguyễn Xuân Khang cùng đồng nghiệp tháo gỡ bằng những sáng kiến, cải tiến kỹ thuật hữu hiệu. Hơn 20 năm làm việc tại Công ty TNHH MTV Cảng Hoàng Diệu thuộc Công ty cổ phần Cảng Hải Phòng cũng là từng ấy năm anh Nguyễn Xuân Khang, Trưởng kho Công cụ không ngừng tìm tòi, nghiên cứu các đề tài, sáng kiến mới để áp dụng vào thực tiễn nhằm tiết kiệm chi phí, tăng năng suất lao động. Những sáng kiến của anh đều được các cấp lãnh đạo đánh giá cao và biểu dương, khen thưởng. Kho công cụ được giao nhiệm vụ quản lý, cấp phát và sửa chữa các công cụ xếp dỡ phục vụ khai thác cảng biển. Công cụ do đơn vị phụ trách rất đa dạng và phong phú. Trong những năm gần đây, đơn vị được công ty đầu tư nhiều thiết bị thế hệ mới như bộ cẩu, dây cẩu có sức cẩu lớn, cân treo điện tử đầu cần, các gầu ngoạm điều khiển từ xa... song trong thực tế còn nhiều công cụ thế hệ cũ vẫn đang sử dụng. Chính vì vậy, để đáp ứng được yêu cầu, ngoài việc khai thác thiết bị mới, cũng cần chú trọng công tác sửa chữa, cải tiến công cụ hiện có để khai thác sử dụng có hiệu quả và đảm bảo an toàn nhất. Trước yêu cầu công việc, anh luôn đi đầu gương mẫu trong mọi mặt công tác, không ngại khó, ngại khổ, nỗ lực cùng toàn thể anh em công nhân trong tổ quản lý cấp phát bảo dưỡng, sửa chữa toàn bộ công cụ xếp dỡ hàng hóa của chi nhánh. Các loại công cụ xếp dỡ khi cấp ra đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, đáp ứng nhanh, đầy đủ cho khai thác hàng hóa, không để xảy ra tình trạng mất an toàn lao động.   Anh Nguyễn Xuân Khang đang trao đổi với đồng nghiệp Do gắn bó với hiện trường, nắm bắt những khó khăn thực tế, đào sâu suy nghĩ ngay trong quá trình làm việc hàng ngày. Nên hàng loạt vấn đề khó khăn, vướng mắc về kỹ thuật trong quá trình vận hành máy móc đã được tháo gỡ, nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật đã được anh cùng các đồng nghiệp và công nhân áp dụng trực tiếp, mang lại hiệu quả kinh tế cao, an toàn, giảm bớt sức lao động mệt nhọc cho công nhân bốc xếp. Từ năm 2015 – 2020, anh đã lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn và có những sáng kiến đã được hội đồng sáng kiến Công ty TNHH MTV Cảng Hoàng Diệu phê chuẩn và đưa vào sản xuất. Cụ thể, năm 2015 là sáng kiến “Giải pháp đảo chiều các tay gầu ngoạm bị cong, giảm thiểu thời gian và chi phí sửa chữa”; năm 2016 với 4 sáng kiến: “Điều chuyển xe nâng hàng TCM FD100E59 về kho công cụ phục vụ chuyển công cụ cho các máng ngoài hiện trường phục vụ sản xuất”; “ Sửa chữa hệ thống điều khiển ngoạm thủy lực điều khiển từ xa tại cảng Hoàng Diệu”;  “Sử dụng bánh xe moóc cũ có dính lớp cao su chịu lực cắt thành hai nửa chế tạo bộ càng dùng cho xe nâng hàng để xếp dỡ hàng tôn cuộn” và “Chế tạo bộ giá đỡ con lăn cao su phục vụ sửa chữa piston ngoạm thủy lực”. Năm 2017, anh có 2 sáng kiến “Thiết kế chế tạo bộ đòn gánh cẩu ray loại ray có chiều dài 18 đến 25m” và “Thiết kế lắp thêm bánh xe di chuyển cho đòn gánh cẩu hàng thiết bị”. Năm 2018, anh tiếp tục có 2 sáng kiến “Thiết kế chế tạo bộ cẩu ống chống xước phục vụ khai thác mặt hàng ống đường kính lớn chất lượng cao tiết kiệm chi phí đáp ứng kịp thời yêu cầu sản xuất” và “Thiết kế chế tạo bộ móc cẩu tôn tấm chất lượng cao”. Năm 2019, anh có 2 sáng kiến “Nghiên cứu chế tạo khung gá cáp để bện dây nilon tạo thành bộ cáp tổ hợp phục vụ cẩu tôn cuộn chất lượng cao” và “Chế tạo cáp tổ hợp để phục vụ cẩu tôn cuộn có trọng lượng lớn bằng phương pháp bện dây ni-lông (thải loại) liên kết hai sợi cáp F32 trên suốt chiều dài 5m”. Chia sẻ về sáng kiến “Chế tạo cáp tổ hợp để phục vụ cẩu tôn cuộn có trọng lượng lớn bằng phương pháp bện dây nilon (thải loại) liên kết hai sợi cáp F32  trên suốt chiều dài 5m”, anh Khang cho biết: 6 tháng đầu năm 2019, sản lượng hàng tôn cuộn thông qua cảng Hoàng Diệu đạt 680 nghìn tấn. Để thực hiện dịch vụ bốc xếp loại hàng tôn cuộn này, nhất là xếp dỡ hàng bằng cần trục bờ hoặc cần trục bánh lốp, đơn vị đã chế tạo và đưa vào sử dụng các loại công cụ mang hàng khác nhau như bộ ngáo cẩu chuyên dụng, cáp đan, bộ ngáng chữ C. Tuy nhiên, trong thực tế khai thác, các loại công cụ này đều có nhiều nhược điểm là khi nâng hạ hàng, các công cụ này sẽ cọ sát, va quệt làm quăn mép của các lớp tôn bên lõi trong cuộn tôn làm ảnh hưởng tới chất lượng và năng suất xếp dỡ. Vì vậy, các loại hàng tôn chất lượng cao theo yêu cầu của chủ hàng đơn vị vẫn phải sử dụng dây ni-lông dẹt mắc luồn qua lòng trong cuộn tôn để cẩu. Sau một thời gian sử dụng, các sợi dây này bị sờn, đứt dảnh nên phải thay mới tốn rất nhiều chi phí. Để đáp ứng yêu cầu công việc, sau khi nghiên cứu, tìm tòi thì sáng kiến được ra đời. Để thực hiện được ý tưởng, anh đã nghiên cứu, tận dụng các thiết bị sẵn có của đơn vị như sợi cáp F32 dài 5,5mm đã đấu hai đầu khuyết, dây ni-lông thải loại… Sợi cáp F32 dài 5,5mm đã đấu hai đầu khuyết được duỗi thẳng 2 sợi, đặt song song với nhau, sau đó dùng dây ni-lông thải loại, đan bện liên kết hai sợi cáp tạo thành sợi cáp tổ hợp. Sau khi chế tạo xong, quá trình xếp dỡ hàng tôn cuộn sử dụng các sợi cáp tổ hợp này đạt kết quả tốt, thuận tiện trong việc chuẩn bị công cụ cho khai thác đặc biệt là thích hợp cho mọi loại hàng tôn cuộn và giảm sức lao động. Tiết kiệm cho đơn vị 120 triệu đồng/năm. Là một trưởng kho kiêm Bí thư chi bộ của đơn vị, anh luôn rèn luyện bản thân, phấn đấu học hỏi nâng cao trình độ quản lý, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường, đòi hỏi có sự nhanh nhạy và thông thoáng, giải quyết kịp thời, nhanh chóng cho chủ hàng, tạo niềm tin với chủ hàng. Vì vậy, anh đã hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Anh còn tích cực tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao chào mừng những ngày lễ lớn. Xây dựng và củng cố đơn vị vững mạnh, động viên cán bộ, công nhân viên hăng hái thi đua lao động giỏi, các phong trào lao động sáng tạo, xây dựng những gương mặt điển hình tiên tiến, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, đảm bảo thu nhập ổn định và bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người lao động. Anh thường xuyên động viên cán bộ, công nhân viên trong đơn vị không ngừng học tập, cập nhập các công nghệ thông tin mới để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn trong công tác; duy trì và áp dụng thường xuyên quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO- 9001-2008.  Liên tiếp từ 2015-2019, anh đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở, là đoàn viên công đoàn xuất sắc, nhiều Bằng khen, Giấy khen của Bộ Giao thông Vận tải, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, của Tổng công ty Hàng hải Việt Nam. Năm 2018, anh đạt danh hiệu Công nhân lao động tiêu biểu cảng Hải Phòng…. Thục Anh

Khoa Nội Thần kinh Bệnh viện Hữu nghị Việt Xô không ngừng phát triển và đổi mới

TĐKT - Với những nỗ lực không ngừng, khoa Nội Thần kinh Bệnh viện Hữu nghị Việt Xô đang không ngừng nỗ lực và phát triển từng ngày. Trưởng khoa Nội Thần kinh Mai Đức Thảo cho biết, khoa được thành lập từ năm 1958, ban đầu chỉ mới có 20 giường bệnh. Đến năm 2020, tăng lên 67 giường, với đặc điểm tình hình bệnh nhân đông, để đáp ứng nhu cầu phục vụ người bệnh nên số giường thực kê tại khoa là 80 giường và 1 phòng khám chuyên khoa thần kinh phục vụ bệnh nhân ngoại trú. Đây là một trong những khoa được đầu tư các trang thiết bị hiện đại, đội ngũ cán bộ, nhân viên có trình độ, cùng các giáo sư, bác sĩ đầu ngành chẩn đoán và điều trị... Với 35 cán bộ, nhân viên, khoa gồm 9 bác sĩ (1 tiến sĩ; 1 bác sĩ chuyên khoa 2; 2 thạc sĩ; 2 bác sĩ chuyên khoa 1; 1 bác sĩ chuyên khoa tâm thần, 2 bác sĩ đa khoa trong đó 1 bác sĩ đang học cao học), 25 điều dưỡng và 1 hộ lý đã luôn cố gắng hoàn thành xuất sắc việc nhiệm vụ được giao như: Khám, điều trị, chăm sóc, theo dõi, quản lý và phục hồi chức năng cho người bệnh mắc bệnh thuộc chuyên khoa thần kinh như: Tai biến mạch máu não, các bệnh thoái hóa não và hệ thần kinh, bệnh thần kinh ngoại biên, bệnh động kinh, khối u hệ thần kinh, bệnh thần kinh do nhiễm độc, do rối loạn chuyển hóa, bệnh tâm thần như sa sút trí tuệ, rối loạn giấc ngủ, hoang tưởng… Trong số đó, khoảng 1/3 số bệnh nhân là bệnh nhân nặng, đòi hỏi phải hồi sức tích cực vì hôn mê, suy đa tạng, thông khí nhân tạo, sinh hoạt tại giường, phải chăm sóc toàn diện. Trưởng khoa Nội Thần kinh Mai Đức Thảo thăm khám cho bệnh nhân Mặt khác, Khoa Nội Thần kinh cũng đảm nhận nhiệm vụ: Khám, hội chẩn chuyên khoa, khi được các khoa trong bệnh viện yêu cầu; ghi điện não và đọc kết quả cho các người bệnh được chỉ định trong toàn bệnh viện cả nội và ngoại trú, người bệnh khám, chữa bệnh theo yêu cầu; khám bệnh, theo dõi và điều trị ngoại trú cho người bệnh mắc bệnh chuyên khoa thần kinh; tham gia công tác chỉ đạo tuyến, khám sức khỏe định kỳ cho cán bộ các tỉnh, thành phố khi được yêu cầu; thực hiện nghiên cứu khoa học, tham gia các buổi sinh hoạt khoa học của ngành, của bệnh viện. Cùng với sự nỗ lực, cố gắng không ngừng của tập thể lãnh đạo, bác sĩ và cán bộ, nhân viên trong khoa, khoa Nội Thần kinh đã làm tăng thêm bảng thành tích cao của Bệnh viện Hữu nghị Việt Xô khi giành được Cờ thi đua của ngành Y tế tặng những năm 1976, 1977 và 1978 và được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba năm 1986. Mục tiêu chung của bệnh viện là nỗ lực thực hiện: “Đổi mới phong cách, thái độ của nhân viên y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh”, đặc biệt thực hiện tốt “Quy tắc ứng xử” do Bộ Y tế ban hành: Quy tắc ứng xử tại khoa, phòng và trong bệnh viện. Nhân viên khoa luôn có thái độ phục vụ ân cần, lễ phép, niềm nở, tận tình để làm hài lòng người bệnh và người nhà người bệnh… Nhiều bệnh nhân sau khi đến khám, điều trị tại khoa đã có rất nhiều thư khen ngợi và đều có chung một nhận xét: Đội ngũ lãnh đạo, bác sĩ, điều dưỡng và nhân viên trong khoa luôn hết lòng chăm sóc, phục vụ bệnh nhân tận tình, chu đáo. Điều đó đã để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng mỗi bệnh nhân và người nhà đối với khoa nói riêng, đối với bệnh viện nói chung. Trưởng khoa Nội Thần kinh Mai Đức Thảo nhấn mạnh, mặc dù, năm 2020 là năm hết sức khó khăn với ngành y tế nói riêng, toàn đất nước nói chung, không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn cầu vì bệnh dịch COVID-19 nhưng dưới sự chỉ đạo của Đảng, của Nhà nước, của Bộ Y tế, của bệnh viện, khoa đã tuân thủ nghiêm khắc và tích cực phòng, chống bệnh dịch, sẵn sàng tham gia tuyến đầu khi có yêu cầu. Bên cạnh đó, tập thể khoa đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao với nhiều kết quả nổi bật. Đặc biệt, công suất sử dụng giường đạt 109% kế hoạch, ngày điều trị trung bình giảm từ 14,1 (2019) xuống 13,5 ngày (2020), số thủ thuật loại đặc biệt và loại I tăng... Triển khai nhiều kỹ thuật mới như: Ghi điện cơ chẩn đoán các bệnh thần kinh cơ, tăng cường tiêm botox điều trị rối loạn trương lực cơ, siêu âm xuyên sọ trong chẩn đoán bệnh xuất huyết dưới nhện... Bên cạnh đó, vấn đề nghiên cứu khoa học và học tập để nâng cao trình độ chuyên môn luôn được chú trọng. Năm 2020 có 1 bác sĩ bảo vệ thành công tiến sĩ, 2 bác sĩ thi tốt nghiệp đạt loại giỏi bác sĩ chuyên khoa 1, 3 bác sĩ đã học chuyên sâu về siêu âm xuyên sọ, tiêm điều trị co cứng cơ giảm đau, 1 bác sĩ thi đỗ đầu vào cao học... Cán bộ, nhân viên khoa tham gia báo cáo sinh hoạt khoa học đã được hội đồng khoa học công nghệ công nhận và tập thể khoa công nhận. Hơn hết, tất cả cán bộ trong khoa đều thể hiện lập trường tư tưởng vững vàng, hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng bộ, cũng như sự phát triển của bệnh viện; thực hiện nghiêm túc các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, nghị quyết của Đảng ủy, các quy chế, quy định của ngành, của bệnh viện và của khoa, giữ vững y đức. Không có cán bộ, nhân viên nào vi phạm các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, các quy chế, quy định của ngành, của bệnh viện và của khoa. Bằng những cố gắng, nỗ lực hàng ngày, hàng giờ, Chi bộ khoa Nội Thần kinh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tập thể khoa phòng đạt tập thể tiên tiến. 100% viên chức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và đạt danh hiệu lao động tiên tiến... Hồng Thiết

Nỗ lực tạo việc làm cho đồng bào người dân tộc Ê đê

TĐKT - Năm 2011, chị Nguyễn Thị Ngọc Anh, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Nữ doanh nhân tỉnh Đắk Lắk đã thuyết phục, kêu gọi các nữ doanh nhân cùng hợp tác đầu tư xây dựng Khu du lịch sinh thái - văn hóa - cộng đồng Kotam tại xã Ea Tu, TP Buôn Ma Thuột. Điều đáng nói, không chỉ chú trọng hoạt động sản xuất, kinh doanh, Câu lạc bộ Nữ doanh nhân tỉnh và Công ty Cổ phần Du lịch cộng đồng Kotam đã có nhiều hoạt động thiện nguyện, đóng góp cho công tác an sinh xã hội. Công ty và câu lạc bộ đã tạo việc làm ổn định cho 79 lao động địa phương, trong đó có 75% là người đồng bào dân tộc thiểu số và tạo việc làm thời vụ cho khoảng 100 người. Chị Nguyễn Thị Ngọc Anh Mang một nét đẹp đậm chất núi rừng Tây Nguyên, cùng với sự kết hợp hài hòa của cả một hệ sinh thái đa dạng giữa cỏ cây hoa lá và những bến nước nhân tạo trong vắt, khu du lịch Kotam nay đã trở thành một điểm đến thú vị, thu hút rất nhiều khách du lịch khi đặt chân đến mảnh đất đầy nắng gió này. Ít ai biết được, nhiều năm trước đây, khu vực này chỉ toàn là nương rẫy, triền đồi hoang vắng. Chủ rẫy là những hộ nông dân nghèo thuộc 3 buôn Kotam, Krông A, Krông B của đồng bào Ê Đê xã Ea Tu, đời sống còn nhiều khó khăn. Dự án xây dựng Trung tâm du lịch sinh thái - văn hóa - cộng đồng Kotam ra đời từ tâm nguyện của Chủ tịch CLB Nữ doanh nghiệp Đắk Lắk Nguyễn Thị Ngọc Anh, với mong muốn tạo một mô hình kinh tế có thể giúp nhiều người xóa nghèo bền vững. Công ty cổ phần Du lịch cộng đồng Kotam được thành lập từ đó, do chính chị làm Chủ tịch Hội đồng quản trị. Từ chục tỷ đồng vốn góp đầu tiên, Hội đồng quản trị công ty tiến hành việc thỏa thuận mua lại một số nương rẫy của đồng bào với giá cao hơn giá chuyển nhượng đất trên thị trường. Nhận được chính sách ưu đãi đầu tư, cộng với hơn chục héc-ta đất tỉnh cho thuê dài hạn, Kotam nhanh chóng trở thành một quần thể du lịch cảnh quan tươi đẹp, có dịch vụ vui chơi, thể thao giải trí, quảng bá đặc sản. Chị Nguyễn Thị Ngọc Anh cho biết: “Định hướng chung của Kotam là xây dựng một khu du lịch sinh thái - văn hóa - cộng đồng với các mục tiêu cụ thể: Giữ gìn môi trường, góp phần bảo vệ dòng suối đầu nguồn Kotam; góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc Tây Nguyên; tạo việc làm cho người đồng bào thiểu số; nâng cao giá trị sản phẩm, đặc sản địa phương; nơi gắn kết giao lưu học hỏi giới nữ. Quá trình xây dựng, tổ chức hoạt động, du lịch Kotam luôn kiên định thực hiện 5 mục tiêu này, không vì lợi nhuận hay khó khăn trước mắt mà xem nhẹ mục tiêu nào. Bởi vậy, công ty luôn sử dụng lao động là người đồng bào dân tộc tại chỗ; kiến trúc, xây dựng của khu du lịch đều thân thiện phù hợp với môi trường, hài hòa với không gian sinh thái…” Kiên định với các mục tiêu này, khu du lịch Kotam ngày càng phát triển bền vững, được nhiều cá nhân, doanh nghiệp đến học hỏi, làm theo. Đến với Kotam, du khách có thể tham gia vào rất nhiều hoạt động vui chơi hấp dẫn như: Chèo thuyền thúng ở hồ cảnh quan, đua voi, xem người Ê Đê, Bana tạc tượng, thả mình trong không gian mộc mạc đậm chất núi rừng Tây Nguyên. Du khách còn được khám phá và tìm hiểu những nét văn hóa của người Ê Đê qua tiếng cồng, tiếng chiêng và những điệu múa truyền thống. Khu vực dãy nhà sàn cũng chính là nơi trưng bày các hình ảnh văn hóa người Ê Đê và là nơi diễn ra nhiều lễ hội đặc trưng như lễ cúng voi, lễ cúng bến nước... Chị Nguyễn Thị Ngọc Anh (chính giữa) và nhân viên của công ty tại khu du lịch Kotam Giai đoạn từ năm 2015 - 2019, số khách tham quan du lịch tới Kotam là 1.355.000 lượt khách, riêng năm 2018 - 2019 là 675.000 lượt khách. Công ty đã nộp đầy đủ các loại thuế, không chậm trễ; trong quá trình xây dựng, Công ty không xin hoàn thuế. Tổng số thuế đã nộp trong 5 năm là hơn 4,4 tỷ đồng. Công ty tạo việc làm thường xuyên cho 79 người (trong đó 75% là con em đồng bào dân tộc thiểu số, 72% là nữ); lao động thời vụ từ 30 - 100 người tùy theo yêu cầu công việc. Lương bình quân cho người lao động là 5,8 triệu đồng/tháng, 100% công nhân được đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; một năm được trang bị 4 bộ quần áo bảo hộ lao động; 100% công nhân được khám bệnh định kỳ và đi du lịch ngoài tỉnh từ 1 đến 2 lần/năm. Chị chia sẻ: “Mặc dù doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ (100% cổ đông là nữ), lao động nữ và người đồng bào thiểu số chiếm trên 70%, đối tượng được nhà nước có nhiều chính sách ưu đãi, nhưng tôi muốn phát huy khả năng, nội lực, để khẳng định vai trò người phụ nữ mới, người đồng bào thiểu số, nên trong quá trình hoạt động không vay, xin, hay hỗ trợ từ bất cứ tổ chức nào.” Trong 5 năm qua, chị không ngừng đổi mới, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo thêm nhiều việc làm, tăng thêm thu nhập cho người lao động ở nông thôn, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, nâng cao chất lượng dịch vụ. Môi trường xanh - sạch - sáng, cảnh quan đẹp, chất lượng sản phẩm dịch vụ đảm bảo là yếu tố quyết định sự phát triển của khu du lịch Kotam. Kiến trúc của khu du lịch đều thân thiện phù hợp với môi trường, hài hòa với không gian sinh thái Không chỉ giúp tạo công ăn việc làm, chị còn tích cực tham gia công tác xã hội, từ thiện, giúp đỡ các hoàn cảnh khó khăn. Trong những năm qua, chị đã ủng hộ xây mái ấm tình thương, giúp đỡ những gia đình chính sách tại địa phương xây sửa nhà, nuôi 1 cụ già không có nơi nương tựa suốt đời, với tổng số tiền trên 1 tỷ đồng. Tham gia các tổ chức hội, chị đều ủng hộ nhiệt tình về cả tinh thần và vật chất trị giá hàng tỷ đồng. Đối với công nhân viên, chị xem người lao động như người nhà, giúp đỡ tận tình, từ việc dạy nghề cho đến việc gia đình, xã hội, đồng thời đã trích cổ phần của bản thân tặng cho cán bộ, nhân viên với giá trị trên 2 tỷ đồng.  Thời gian vừa qua, dù doanh thu của công ty giảm sút do ảnh hưởng của dịch Covid-19, song chị Ngọc Anh vẫn tích cực đóng góp cho công tác phòng, chống dịch tại địa phương. Chị không chỉ quyên góp hỗ trợ gạo cho người nghèo, tặng rau, trái cây sạch được trồng trong vườn của công ty cho lực lượng làm nhiệm vụ phòng, chống dịch mà còn tích cực vận động các thành viên trong Hiệp hội Du lịch Đắk Lắk cùng chung tay với công tác này. Chia sẻ về phương hướng phát triển trong thời gian tới, chị cho biết sẽ tiếp tục xây dựng, đào tạo, củng cố để thực hiện 5 mục tiêu công ty đã đề ra không vì lợi nhuận. Xây dựng phát triển du lịch cộng đồng cho dân cư quanh vùng để phát triển kinh tế, tạo việc làm, cải thiện đời sống cho người dân địa phương. Phương Thanh  

Trưởng bản gương mẫu mở đường làm kinh tế mới

TĐKT - Với suy nghĩ “Đảng viên không được nghèo, phải có kinh tế khá trở lên mới vận động được người dân tin tưởng làm theo”, những năm qua, ông Triệu Văn Lý, Phó Bí thư Chi bộ, Trưởng bản Vàng Ngần, xã Suối Quyền, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái không ngừng tìm kiếm hướng làm kinh tế mới. Đồng thời, ông luôn gương mẫu, tích cực vận động nhân dân trong bản phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, tham gia hiệu quả các phong trào của địa phương. Bản Vàng Ngần là nơi xa nhất của xã Suối Quyền, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Đường giao thông đi lại khó khăn, cách trung tâm xã hơn 20 km. Đến năm 2004 mới có đường xe máy đi đến điểm trung tâm. Giữa năm 2019 mới có điện lưới quốc gia. Cả bản hiện có 103 hộ, 530 khẩu, 100% là dân tộc Dao. Ông Triệu Văn Lý (thứ hai từ phải sang) tại Đại hội Thi đua yêu nước tỉnh Yên Bái Dù ở xa trung tâm xã nhưng bản luôn được Đảng ủy, chính quyền, các ngành, đoàn thể của xã và cấp trên quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ; liên tục trong nhiều năm trở thành thôn bản điển hình tiêu biểu nhất trong xã về nhiều mặt. Đời sống nhân dân bản Vàng Ngần nay đã khá hơn trước rất nhiều. Mỗi năm thôn bản giảm khoảng 15 đến 20% hộ nghèo. Mặc dù cuối năm 2019 ở đây mới có điện lưới quốc gia nhưng hiện nay đã có hơn 80% số hộ có ti vi, 30% có máy giặt, gần 100% có xe máy; có hộ mua được cả ô tô bán tải, ô tô tải, máy xúc… Những kết quả ấy có sự đóng góp không nhỏ của Phó Bí thư Chi bộ, Trưởng bản Vàng Ngần Triệu Văn Lý. “Để trở thành người được bà con trong bản tin tưởng phải mất nhiều thời gian, phải sống thật tốt, quý trọng bà con, làm những việc làm tốt; chỉ cần có một việc không tốt thì người dân không tin, không quý nữa. Nên tôi thấy bản thân mình phải thường xuyên gương mẫu học tập và làm theo Bác Hồ, xứng đáng là người đảng viên gương mẫu.” – Ông Triệu Văn Lý chia sẻ. Quyết tâm mở đường làm kinh tế mới, qua tìm hiểu, thấy cây quế có giá trị cao, ông tiên phong trồng quế thay cho cây nứa, cây lau lách. Từ năm 2006 đến nay, mỗi năm, gia đình ông đều trồng thêm và trồng thay thế khoảng 1 ha quế. Hiện nay, gia đình ông có hơn 10 ha quế, nếu bán hết cũng được khoảng 5 đến 7 tỷ đồng. Ông ươm quế giống để phát triển đồi quế của gia đình và hướng dẫn cho các hộ trong bản cùng làm. Đến nay cả bản có trên 350 ha quế, chủ yếu là quế hữu cơ, giá bán cao hơn. Từ cây quế đã có nhiều hộ thoát nghèo, nhiều hộ khá, hộ giàu. Ông cũng phát triển thêm chăn nuôi trâu, lợn, gà để phục vụ sinh hoạt và bán ra thị trường, tăng thêm thu nhập; đồng thời, khai hoang thêm ruộng nước để đảm bảo lương thực. Gia đình ông hiện có 6 nhân khẩu, thu nhập cả gia đình trên 300 triệu đồng/năm. Ông Triệu Văn Lý dọn cỏ cho vườn quế Không chỉ làm giàu cho bản thân và gia đình, ông còn chủ động đề xuất tiếp tục phát triển đồi quế chung của thôn, nâng tổng diện tích từ 15 ha năm 2016 lên 35 ha năm 2020. Ông đã phân công các hộ trong bản luân phiên chăm sóc, bảo vệ, khai thác khi cần thiết. Hằng năm, số tiền thu được từ thu hoạch cành, lá quế và một số sản phẩm khác trên 150 triệu đồng được sử dụng để chi cho hoạt động chung của bản, chủ yếu dùng để hỗ trợ các hộ có hoàn cảnh khó khăn, ốm đau, bệnh tật, làm nhà thiếu tiền, cho các hộ vay không tính lãi để phát triển kinh tế; mua vật liệu mở đường giao thông; khen thưởng các cháu học sinh khá, giỏi và các hộ, cá nhân tiêu biểu, gương mẫu... Cuối năm, trong ngày tổ chức liên hoan tổng kết vào dịp Tết Nguyên đán, bản thường hỗ trợ cho mỗi hộ khoảng 700 nghìn đến 1 triệu đồng để ăn Tết. Là trưởng bản, ông luôn đau đáu việc giữ gìn bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Ông cho biết: “Người Dao chúng tôi rất coi trọng thờ cúng tổ tiên, các lễ tục trong sinh hoạt, coi trọng người cao tuổi. Lo lắng sau này thế hệ trẻ quên dần, nên tôi quyết tâm đi học chữ viết, các lễ tục dân tộc, tôi được cấp sắc 12 đèn, là chức sắc cao nhất trong đời sống tinh thần của dân tộc Dao.” Với vai trò trưởng bản, ông cùng bàn bạc với các cụ, các bác trong bản 2 năm mở một lớp dạy chữ viết, phong tục cho thanh niên và thiếu niên để tiếp nối truyền thống, giữ gìn bản sắc tốt đẹp của dân tộc mình. Nhờ ông kiên trì vận động, những tập tục lạc hậu như tục lệ thách cưới cao, hôn nhân cận huyết thống… dần được xóa bỏ. Từ sự gương mẫu, tích cực của trưởng bản Triệu Văn Lý, nhân dân trong bản Vàng Ngần luôn tin tưởng, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, đoàn kết, gắn bó giúp nhau xóa đói, giảm nghèo. Với những đóng góp tích cực, trưởng bản Triệu Văn Lý vinh dự được Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái tặng bằng khen điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh giai đoạn 2018 - 2020, là một trong 10 đại biểu đại diện tỉnh Yên Bái dự Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X. Phương Thanh      

Trang