Kinh tế

Hợp tác công tư nhằm giảm phát thải và phát triển nông nghiệp bền vững

TĐKT - Ngày 20/10, tại Đắk Lắk, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp cùng Công ty TNHH Nestlé Việt Nam tổ chức Diễn đàn Nông nghiệp sinh thái: Giải pháp giảm phát thải và phát triển nông nghiệp bền vững với mục tiêu hướng đến nền nông nghiệp xanh, ít phát thải và thích ứng với biến đổi khí hậu. Diễn đàn đã thu hút hơn 100 đại biểu đại diện các Bộ, ngành, các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Phát biểu tại Diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Lê Quốc Doanh cho biết, sản xuất nông nghiệp trong những năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn. Thành tựu lớn nhất là đã đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia, phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa, có vị trí đáng kể trong khu vực và trên thế giới. Trải qua đại dịch Covid-19, ngành nông nghiệp đã cho thấy vai trò bệ đỡ của nền kinh tế trong lúc khó khăn, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu, là cơ sở quan trọng để thực hiện an sinh, an dân trong đại dịch. Toàn cảnh Diễn đàn “Nông nghiệp sinh thái - Giải pháp giảm phát thải và phát triển nông nghiệp bền vững” Tuy nhiên, bên cạnh những điều tích cực đã được ghi nhận, sản xuất nông nghiệp cũng là một nguồn gây phát thải, tập trung ở các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, quản lý đất, sử dụng phân bón, quản lý đất..., trong đó, gần 70% phát thải CO2 đến từ các hoạt động trồng trọt. Tại Hội nghị COP26 năm 2021, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã cam kết Việt Nam phấn đấu đạt phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050, cùng với 2 cam kết khác có liên quan chặt chẽ đến ngành nông nghiệp là cam kết tham gia sáng kiến Giảm phát thải khí mê-tan toàn cầu, theo đó giảm 30% phát thải khí mê-tan vào năm 2030 và cam kết thực hiện “Tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất”. Để thực hiện các cam kết này, tháng 1/2022, Bộ NN&PTNT đã trình Chính phủ “Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững, giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050” và đã được Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt. Theo Thứ trưởng Lê Quốc Doanh, Bộ NN&PTNT cũng đang triển khai xây dựng Kế hoạch giảm nhẹ phát thải khí nhà kính ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lê Quốc Doanh phát biểu khai mạc tại Diễn đàn Các đại biểu tham dự Diễn đàn nhất trí rằng việc thực hiện các cam kết quốc tế nói trên cũng như triển khai Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững đòi hỏi những nỗ lực rất lớn, không chỉ từ phía Chính phủ mà từ cả khối tư nhân, doanh nghiệp, người sản xuất trực tiếp cùng tham gia thực hiện ở các quy mô khác nhau để khơi thông nguồn lực đầu tư của toàn xã hội. Tham dự Diễn đàn nhân chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam, ông David Rennie, Phó Chủ tịch Điều hành & Giám đốc Các Thương hiệu Cà phê của Tập đoàn Nestlé nhấn mạnh: “Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất của xã hội. Đây cũng là một trong những rủi ro lớn nhất đối với việc sản xuất các thành phần trong thực phẩm và đồ uống của chúng tôi. Chúng tôi đang tích cực hành động để trở thành một công ty có mức phát thải ròng bằng “0” và đẩy nhanh tiến độ hướng tới các hệ thống thực phẩm tái sinh trên quy mô lớn. Hôm nay, chúng tôi muốn chia sẻ về phương pháp tiếp cận nông nghiệp tái sinh và lý do tại sao nông nghiệp tái sinh là một phần quan trọng trong lộ trình Net Zero của Nestlé”. “Chúng tôi vừa công bố Chương trình Nescafé Plan 2030, mục tiêu bền vững và hành trình nông nghiệp tái tạo cho thương hiệu cà phê lớn nhất của chúng tôi, Nescafé.” Ông David Rennie cho biết thêm: “Chúng tôi đang cùng làm việc với nông dân để giúp họ chuyển đổi sang phương thức canh tác cà phê tái sinh và tìm kiếm các giải pháp đồng bộ tốt nhất phù hợp với vùng và cây trồng của họ.” Ông David Rennie, Phó Chủ tịch điều hành, Tập đoàn Nestlé, phát biểu khai mạc tại Diễn đàn Với vai trò là đồng chủ trì PSAV và đồng chủ trì Tiểu ban Sản xuất của Ngành hàng cà phê, cũng như một doanh nghiệp tiên phong trong khối tư, Nestlé Việt Nam bày tỏ mong muốn được đồng hành cùng Chính phủ và các cơ quan, ban ngành trong việc thúc đẩy nền nông nghiệp sinh thái. Chương trình NESCAFÉ Plan của Nestlé Việt Nam hiện đang thực hiện tại 4 tỉnh Tây Nguyên áp dụng mô hình nông nghiệp tái sinh là một giai đoạn quan trọng để tiến đến nông nghiệp sinh thái. Không chỉ chia sẻ về kinh nghiệm và thành tựu của NESCAFÉ Plan tại diễn đàn, Nestlé Việt Nam cũng chia sẻ những sáng kiến trong canh tác tái sinh, nhân rộng các mô hình thực hành tốt, hướng đến nền nông nghiệp xanh, ít phát thải và thích ứng với biến đổi khí hậu. Các phương thức canh tác tái sinh quan trọng cần được thúc đẩy mà Nestlé giới thiệu bao gồm: Tăng cường đa dạng sinh học, bảo tồn đất, tái tạo các chu trình nước và kết hợp chăn nuôi. Diễn đàn được tổ chức trong bối cảnh Việt Nam đang đặt mục tiêu tái cơ cấu và thúc đẩy ngành nông nghiệp dựa trên chất lượng và giá trị để trở thành nhà cung ứng lương thực, thực phẩm minh bạch, trách nhiệm và bền vững cho toàn cầu. Để đạt được mục tiêu này, song song với việc thực hiện tốt cam kết của Chính phủ tại COP26 về việc đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, việc thúc đẩy hợp tác đa bên bao gồm khối công, khối tư và các đối tác trong toàn chuỗi cung ứng là rất cần thiết. Thục Anh

Diễn đàn Tiếp thị trực tuyến 2022: Cập nhật các xu hướng, công nghệ, giải pháp tiếp thị mới

TĐKT – Ngày 20/10/2022, tại Hà Nội, Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM) tổ chức Diễn đàn Tiếp thị trực tuyến VOMF 2022 nhằm cập nhật các xu hướng, công nghệ, giải pháp tiếp thị giúp các doanh nghiệp tăng trưởng ngoạn mục trong thời gian tới. Sự kiện thu hút gần 1000 khách mời đến từ các doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực tiếp thị trực truyến; các giảng viên đại học giảng dạy marketing… VOMF 2022 thu hút sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp Diễn đàn Tiếp thị trực tuyến (Vietnam Online Marketing Forum) VOMF 2022 là sự kiện chính thống về tiếp thị trực tuyến với quy mô toàn quốc, đây là năm thứ 7 sự kiện được tổ chức tại Việt Nam thu hút sự quan tâm của cộng đồng. Quay trở lại sau sự thành công vang dội của Vietnam Online Marketing Forum 2021, VOMF 2022 đón nhận sự quan tâm nồng nhiệt của cộng đồng doanh nghiệp vừa và nhỏ, cá nhân khởi nghiệp, các đơn vị truyền thông, các tổ chức – cơ quan – đơn vị hoạt động trong lĩnh vực marketing, thương mại điện tử trên khắp cả nước. Có thể nói, VOMF 2022 chính là sự kiện Online Marketing quy mô cấp quốc gia được mong đợi nhất năm 2022. Tại đây, doanh nghiệp sẽ tìm thấy những lời giải cho bài toán giải cứu doanh nghiệp trong thời đại mới. Khai mạc chương trình, ông Nguyễn Ngọc Dũng – Chủ tịch Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM) chia sẻ: “Qua 2 năm dịch, hành vi mua hàng của người tiêu dùng đã hoàn toàn thay đổi. Sự dịch chuyển mua sắm lên trực tuyến tăng nhanh gấp 3 lần so với trước đó. Doanh nghiệp đối mặt với tình huống bắt buộc phải thay đổi để tiếp cận nhóm khách hàng đã thay đổi hành vi này. Vì thế, chúng tôi tiếp tục tổ chức Diễn đàn Tiếp thị trực tuyến 2022 với chủ đề “Social Marketing” nhằm mang đến những cập nhật mới về xu hướng tiếp thị trong thời đại mới đến với cộng đồng.” Ông Nguyễn Ngọc Dũng phát biểu khai mạc trong sự kiện VOMF 2022 VOMF 2022 với chủ đề “New Social Marketing”, bao gồm bốn phiên. Phiên 1 với chủ đề “Sự dịch chuyển thói quen mua sắm online” cùng trao đổi hành trình khách hàng, xu hướng hành vi người tiêu dùng cũng như những xu hướng marketing nổi bật trong năm 2022, giúp doanh nghiệp thấu hiểu tường tận về phương hướng tiếp thị hiệu quả thông qua mạng xã hội trong thời gian tới và nhanh chóng chuyển mình để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Các diễn giả chia sẻ tại sự kiện Phiên 2 với chủ đề “Shoppertainment: Xu hướng thương mại giải trí” tập trung cung cấp các giải pháp giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh trực tuyến tận dụng sức mạnh từ lực lượng KOC, ứng dụng triệt để Shoppertainment để tăng trưởng đơn hàng đột phá thông qua những case-study thực tế. Mong muốn được thừa nhận, với những cách quảng cáo đồng loạt cho tất cả mọi người sẽ khó mà đáp ứng được. Đơn giản là bởi mỗi người có mỗi sở thích, cá tính riêng. Điều mà Marketers cần làm là phân chia theo từng nhóm và có những thông điệp phù hợp với nhóm khách hàng đó. Khi doanh nghiệp có chiến lược tập trung vào người dùng, những tác động tích cực từ khách trung thành, tỷ lệ giữ chân khách hàng cũ và mức độ tăng trưởng doanh thu bất ngờ. Đây cũng là nội dung của Phiên 3 “Công nghệ mới trong tiếp thị trực tuyến” . Phiên 4 “Chiến lược D2C trong kỷ nguyên mới mạng xã hội” đã trao đổi về phương hướng tận dụng social để tăng trưởng. Chiến lược mới để tiếp cận gần hơn đến người tiêu dùng sẽ tạo nên thành công cho marketing và quảng cáo nếu doanh nghiệp biết tận dụng sức mạnh và khai thác đúng cách.

Bộ Tài chính đưa ra định mức trong giá cơ sở xăng dầu

TĐKT - Theo thông tin từ Bộ Tài chính, thực hiện quy định tại Nghị định số 95/2021/NĐ-CP ngày 1/11/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ngày 3/9/2014 về kinh doanh xăng dầu, Thông tư số 104/2021/TT-BTC ngày 18/11/2021 của Bộ Tài chính hướng dẫn phương pháp xác định yếu tố cấu thành trong công thức giá cơ sở xăng dầu, năm 2022, Bộ Tài chính đã có thông báo chi phí định mức để Bộ Công Thương tính giá cơ sở xăng dầu theo quy định. Bộ Tài chính đưa ra định mức trong giá cở sở xăng dầu Trong 6 tháng đầu năm 2022, giá xăng dầu thế giới tăng mạnh và ở mức cao, để kiềm chế tác động của giá xăng dầu tăng, nhà nước đã áp dụng triệt để các biện pháp bình ổn giá, trong đó có giảm thuế bảo vệ môi trường vào tháng 4/2022 và tiếp tục giảm kịch sàn trong khung thuế bảo vệ môi trường (BVMT) từ ngày 11/7/2022. Trong bối cảnh đó, các khoản chi phí định mức trong giá cơ sở được rà soát, đánh giá kỹ để xem xét điều chỉnh thận trọng, tránh ảnh hướng đến giá xăng dầu trong nước, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các bên và kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra. Trên cơ sở đó, đã điều chỉnh tăng chi phí định mức liên quan đến nguồn xăng dầu nhập khẩu. Qua theo dõi diễn biến giá xăng dầu thời gian vừa qua cho thấy, từ tháng 7/2022 đến nay, giá xăng dầu trong nước đã liên tục giảm; đồng thời, dù còn nhiều khó khăn, nhưng công tác kiểm soát lạm phát cơ bản đạt được mục tiêu đề ra. Ngày 7/10/2022, Bộ Tài chính đã có công văn số 10281/BTC-QLG gửi Bộ Công Thương tiếp tục thông báo điều chỉnh premium trong nước và chi phí đưa xăng dầu từ nhà máy lọc dầu trong nước về đến cảng trong giá cơ sở xăng dầu; đồng thời đề nghị Bộ Công Thương có phương án điều hành giá xăng dầu trong nước phù hợp để việc tăng chi phí định mức này không tác động làm tăng giá cơ sở tại kỳ điều hành. Trong thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ Công Thương trong việc rà soát đánh giá các yếu tố chi phí định mức trong giá cơ sở đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người dân, nhà nước và doanh nghiệp, có tính đến mục tiêu kiểm soát lạm phát theo mục tiêu Chính phủ đã đề ra. Ngoài ra, hiện nay nhà  nước  không  quy  định  chiết  khấu trong hệ thống kinh doanh xăng  dầu. Yếu  tố  này  chủ  yếu  phụ  thuộc  vào  cung  cầu  thị  trường, diễn biến giá xăng dầu thế giới, sản lượng tồn kho xăng dầu của các thương nhân đầu mối và phương thức bán hàng của hai bên. Chiết khấu xăng dầu có thể còn phụ thuộc  vào chính sách bán hàng, năng lực kinh doanh của thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu mà đại lý, tổng đại lý ký hợp đồng trực tiếp, số lượng các kênh trung gian  trong hệ thống kinh doanh xăng dầu và sự phân bổ mức chiết khấu trong hệ thống. Vì  vậy, cần nghiên cứu rà soát, đánh  giá hệ thống phân phối,  kinh doanh xăng dầu, hệ thống trung gian để có giải pháp phù hợp và tiết kiệm  chi phí. Thời gian qua, thủ tục nhập khẩu và thông quan đối với mặt hàng xăng dầu là một mặt hàng thiết yếu đối với sản xuất và tiêu dùng luôn được cơ quan Hải quan thực hiện nhanh chóng, thuận lợi và theo đúng quy định của pháp luật. Hiện nay, thủ tục xuất nhập khẩu đối với mặt hàng xăng dầu vẫn đang được thực hiện thuận lợi. Tuy nhiên, để rút ngắn hơn nữa thời gian thông quan, để góp phần cho doanh nghiệp kịp thời đưa hàng hóa vào lưu thông trên thị trường, Tổng cục Hải quan đã có văn bản số 3684/TCHQ-GSQL ngày 31/8/2022 chỉ đạo Cục Hải quan các tỉnh, thành phố thực hiện thông quan nhanh chóng đối với mặt hàng xăng dầu nhập khẩu, bố trí cán bộ, công chức trực giải quyết thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát và xử lý vướng mắc đối với xăng dầu nhập khẩu kể cả ngày nghỉ, ngày lễ, ngoài giờ hành chính đảm bảo thông quan 24/7. Hồng Thiết      

Thu ngân sách 9 tháng do cơ quan Thuế quản lý đạt 94% dự toán năm

TĐKT - Theo báo cáo của Tổng cục Thuế, lũy kế thu ngân sách nhà nước (NSNN) 9 tháng năm 2022 do cơ quan Thuế quản lý ước đạt trên 1,1 triệu tỷ đồng, bằng 94% dự toán, tăng 21,7% so với cùng kỳ năm 2021. Báo cáo tại Hội nghị giao ban trực tuyến đánh giá tình hình thực hiện công tác tháng 9, quý III/2022 và kế hoạch triển khai chương trình công tác tháng 10, quý IV/2022 của Bộ Tài chính, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Thuế Đặng Ngọc Minh cho biết, thu ngân sách tháng 9/2022 do ngành Thuế quản lý đạt trên 79.400 tỷ đồng, lũy kế thu ngân sách 9 tháng năm 2022 do cơ quan Thuế quản lý ước đạt trên 1,1 triệu tỷ đồng, bằng 94% dự toán, bằng 121,7% cùng kỳ năm 2021. Thu ngân sách 9 tháng do cơ quan Thuế quản lý đạt 94% dự toán năm 2022 Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Thuế cho biết, để đạt được kết quả tích cực nêu trên, bên cạnh việc ngân sách được hưởng lợi do giá dầu thô tăng cao (thu ngân sách từ dầu thô đạt trên 200% so với cùng kỳ, tương ứng mức tăng thu trên 30 nghìn tỷ đồng) thì việc các hoạt động kinh tế đã dần ổn định và hoạt động bình thường trở lại cũng đã tác động tích cực, quan trọng đến thu ngân sách. Trong đó, một số khoản thu, sắc thuế có mức tăng trưởng tốt so với cùng kỳ như: Thu tiền sử dụng đất, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập cá nhân. Đặc biệt, dù thực hiện chính sách giảm 2% thuế giá trị gia tăng đối với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ nhưng số thu 9 tháng vẫn đạt mức tăng trưởng 13,8% so với cùng kỳ. Điều này cho thấy do việc triển khai thực hiện thành công hóa đơn điện tử trên toàn quốc đã góp phần hạn chế gian lận về hóa đơn, đồng thời người nộp thuế xuất hóa đơn, kê khai đúng thời kỳ phát sinh. Bên cạnh đó, việc ngành Thuế triển khai tốt, hiệu quả công tác chống thất thu, thu hồi nợ thuế, tăng thu do thanh tra, kiểm tra cũng góp phần tăng thu NSNN. Báo cáo về việc triển khai Cổng Thông tin điện tử dành cho nhà cung cấp nước ngoài (NCCNN), Phó Tổng Cục trưởng Đặng Ngọc Minh cho biết, nhờ thực hiện quyết liệt các giải pháp cũng như đẩy mạnh tuyên truyền, hỗ trợ các NCCNN, sau hơn 6 tháng vận hành, hiện đã có 36 NCCNN đăng ký, khai và nộp thuế qua Cổng với tổng số thuế đã khai và nộp đạt trên 1.200 tỷ đồng (tăng trên 700 tỷ so với tháng trước). Trong đó, 6 doanh nghiệp lớn (chiếm khoảng 90% thị phần doanh thu dịch vụ thương mại điện tử (TMĐT), kinh doanh trên nền tảng số xuyên biên giới tại Việt Nam) như Google, Meta (Facebook), Microsoft, TikTok, Netfix, Apple đều cũng đã đăng ký, khai, nộp thuế qua Cổng. Đánh giá về nhiệm vụ thu các tháng cuối năm, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Thuế nhấn mạnh, trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới còn tiềm ẩn nhiều bất ổn, biến động khó lường từ cuộc chiến tranh Nga, Ucraina, tình hình lạm phát và bất ổn kinh tế ở nhiều nước trên thế giới sẽ tác động, ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta, qua đó tác động không thuận đến nhiệm vụ thu ngân sách của ngành Thuế. Để đạt được nhiệm vụ thu ngân sách vượt 15,5% so với dự toán thì trong 3 tháng cuối năm đòi hỏi sự nỗ lực, quyết tâm của toàn hệ thống Thuế. Cụ thể, mỗi tháng ngành Thuế còn phải thu khoảng trên 85.000 tỷ đồng, cao hơn mức thực hiện của tháng 9 gần 5.500 tỷ đồng. Trong bối cảnh đó, thời gian tới, Tổng cục Thuế sẽ tiếp tục thực hiện quyết liệt các giải pháp tăng thu; rà soát, đánh giá kỹ tác động khi triển khai thực hiện các chính sách miễn giảm, gia hạn thuế và nắm sát tình hình hồi phục kinh tế để dự báo khả năng thu, đặc biệt là các nguồn thu bị tác động bởi các chính sách hỗ trợ, kích cầu tiêu dùng và các chính sách tài khóa tiền tệ khác; bám sát, báo cáo tình hình nợ thuế, thu hồi nợ đọng thuế; rà soát, phân tích kỹ lưỡng tính chất nợ, để đôn đốc, cưỡng chế, thu nợ thuế theo Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành, giảm tình trạng nợ đọng... Ngành Thuế cũng tiếp tục tập trung quản lý thuế đối với TMĐT theo đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 889/CĐ-TTg, tiếp tục xây dựng Cổng thông tin tiếp nhận thông tin từ các sàn TMĐT trong nước theo phương thức tự động (điện tử); xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý thuế về TMĐT; nghiên cứu giải pháp kết nối, chia sẻ dữ liệu TMĐT với các bộ, ngành... Cùng với đó, chỉ đạo tổ chức thực hiện ngay trong tháng 10/2022 chương trình hóa đơn may mắn tại 63 tỉnh, thành phố; triển khai hóa đơn điện tử được khởi tạo từ máy tính tiền; tiếp tục đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án “Xây dựng và triển khai hệ thống ứng dụng phân tích dữ liệu và quản lý rủi ro”; nghiên cứu, triển khai áp dụng AI trong quản lý hóa đơn điện tử, quản lý thuế; áp dụng các giải pháp phân tích dữ liệu lớn, trí tuệ thông minh và máy học để phục vụ quản lý rủi ro, phát hiện vi phạm, gian lận về sử dụng hóa đơn... La Giang  

Hải quan tăng cường quản lý hoạt động xuất nhập khẩu xăng dầu

TĐKT - Tổng cục Hải quan cho biết thông tin liên quan đến việc quản lý hoạt động xuất nhập khẩu xăng dầu trong thời gian qua. Theo đó, thủ tục nhập khẩu và thông quan đối với mặt hàng xăng dầu là một mặt hàng thiết yếu đối với sản xuất, tiêu dùng và luôn được cơ quan Hải quan thực hiện nhanh chóng, thuận lợi theo đúng quy định của pháp luật. Công chức hải quan kiểm tra hoạt động xuất nhập khẩu xăng dầu Để tạo thuận lợi và rút ngắn hơn nữa thời gian thông quan, kịp thời đưa hàng hóa vào lưu thông trên thị trường, Tổng cục Hải quan đã có văn bản số 3642/TCHQ-GSQL ngày 31/8/2022 chỉ đạo Cục Hải quan các tỉnh, thành phố thực hiện thông quan nhanh chóng đối với mặt hàng xăng dầu nhập khẩu. Đồng thời, bố trí cán bộ, công chức trực giải quyết thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát và xử lý vướng mắc đối với xăng dầu nhập khẩu, kể cả ngày nghỉ, ngày lễ, ngoài giờ hành chính đảm bảo thông quan 24/7. Chủ động nắm sát tình hình thực tế, giải quyết các vướng mắc phát sinh, chỉ đạo xử lý nghiêm các trường hợp gây phiền hà cho doanh nghiệp. Ngày 15/6/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 quy định về điều kiện kinh doanh hàng miễn thuế, kho bãi, địa điểm làm thủ tục hải quan, tập kết, kiểm tra, giám sát hải quan, có hiệu lực từ ngày 10/8/2020. Cụ thể, tại khoản 11 Điều 1 Nghị định số 67 sửa đổi, bổ sung Điều 22 Nghị định số 68/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 về điều kiện kiểm tra, giám sát kho xăng dầu thì thương nhân kinh doanh xăng dầu có 2 năm kể từ ngày Nghị định có hiệu lực để hoàn thiện điều kiện theo quy định như lắp đặt thiết bị đo mức bồn, bể tự động kết nối trực tuyến số lượng xăng dầu xuất, nhập, tồn kho với cơ quan hải quan. Theo Tổng cục Hải quan, quy định này giúp cho cho cơ quan quản lý nắm được chính xác, kịp thời số lượng xăng dầu nhập khẩu, thu đúng số thuế để nộp, nâng cao hiệu quả quản trị của doanh nghiệp. Triển khai Nghị định trên, Tổng cục Hải quan đã có nhiều văn bản đôn đốc doanh nghiệp và Hải quan đảm bảo thực hiện đúng nội dung, thời hạn quy định của pháp luật. Các doanh nghiệp cũng đã có thời gian 2 năm chuẩn bị trước khi Nghị định 67 có hiệu lực đối với quy định về tiêu chuẩn bồn bể. Trong thời gian qua, Tổng cục Hải quan cũng không nhận được phản ánh vướng mắc từ phía các doanh nghiệp khi triển khai Nghị định này. Hiện nay, có 46/52 kho xăng dầu đầu mối (chiếm gần 88,5%) đáp ứng quy định tại Nghị định số 67/2020/NĐ-CP ngày 15/6/2020 của Chính phủ về việc lắp đặt và kết nối thiết bị đo mức bồn bể tự động với cơ quan hải quan; 6 kho còn lại (chiếm 11,5%) chưa đáp ứng quy định. Theo Hiệp hội Xăng dầu Việt Nam, sản lượng sản xuất xăng dầu trong nước đáp ứng 70%, lượng xăng dầu tiêu thụ tại Việt Nam, số còn lại từ nguồn nhập khẩu. Vì vậy, cơ quan Hải quan khẳng định việc cơ quan hải quan tạm dừng thực hiện thủ tục hải quan tại các kho chưa có thiết bị đo bồn bể tự động, chưa kết nối với cơ quan hải quan không ảnh hưởng đến tình hình xuất nhập khẩu xăng dầu của các doanh nghiệp đầu mối. Hồng Thiết  

Tăng cường xuất khẩu hàng nông sản chính ngạch trên các tuyến đường sắt

TĐKT - Từ đầu năm 2020, do tác động của dịch Covid-19, việc các nước áp dụng các biện pháp phòng, chống dịch làm ảnh hưởng đến chuỗi cung toàn cầu, hàng hóa vận chuyển bằng đường biển, đường bộ bị ách tắc, giá cước tăng cao. Đặc biệt do phía Chính phủ Trung Quốc thực hiện chính sách “zero covid” với các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 chặt chẽ dẫn đến việc lưu thông hàng hóa, phương tiện, con người qua khu vực biên giới phía Bắc gặp khó khăn. Hàng nghìn phương tiện vận tải chở hàng hóa xuất nhập khẩu bị ùn ứ, ách tắc tại các khu vực biên giới phía cả hai nước gây thiệt hại lớn cho các doanh nghiệp.   Tăng cường xuất khẩu hàng nông sản chính ngạch trên các tuyến đường sắt Chủ trương, định hướng phát triển ngành đường sắt Trước tình hình nêu trên, Chính phủ và các bộ, ngành đã nỗ lực triển khai nhiều giải pháp tạo thuận lợi thương mại, thúc đẩy thông quan hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa nông sản. Tuy nhiên, các giải pháp đã triển khai chưa thực sự tháo gỡ được khó khăn. Từ sau Tết Nguyên đán 2022, lưu lượng hàng hóa xuất nhập khẩu qua cửa khẩu đường bộ biên giới phía Bắc liên tục sụt giảm. Lượng hàng hóa thông quan qua các cửa khẩu theo hình thức nhỏ giọt và thường rơi vào trạng thái bị động theo thông báo của cơ quan chức năng Trung Quốc mặc dù các biện pháp tạo thuận lợi thương mại, triển khai vùng xanh, vùng đệm tại các cửa khẩu đã được các địa phương triển khai. Trong khi đó, đường sắt có lợi thế vận chuyển luôn thông suốt, ít bị ảnh hưởng của dịch bệnh, cước phí vận chuyển thấp hơn so với các loại hình vận chuyển khác. Vì vậy, các doanh nghiệp có xu hướng chuyển sang lựa chọn hình thức vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường sắt liên vận quốc tế. Với các lý do nêu trên và căn cứ nhu cầu, kiến nghị của một số doanh nghiệp, có thể thấy xu hướng phát triển của vận tải hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu bằng đường sắt liên vận quốc tế là tất yếu. Do đó, cần “Tăng cường xuất khẩu hàng nông sản chính ngạch trên các tuyến đường sắt”. Thực hiện chủ trương của Chính phủ về việc sớm khắc phục những khó khăn thách thức, tranh thủ thời gian đẩy nhanh quá trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2022, tại Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 07/3/2022 phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 02 năm 2022 Chính phủ đã yêu cầu Bộ Giao thông Vận tải chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương: “Nghiên cứu xây dựng phương án nâng cao năng lực, sản lượng vận tải đường sắt liên vận quốc tế phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa”. Tại Thông báo số 8/TB-VPCP ngày 10/01/2022 của Văn phòng Chính phủ thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành trong cuộc họp trực tuyến về tình hình xử lý hàng hóa ùn tắc tại các cửa khẩu biên giới phía Bắc chỉ đạo: Yêu cầu các Bộ, cơ quan, địa phương tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp nhằm tận dụng các phương thức vận tải khác như đường biển, đường sắt để xử lý ùn tắc tại cửa khẩu biên giới phía Bắc. Trên cơ sở kiến nghị của các doanh nghiệp có sử dụng hình thức vận tải đường sắt, Tổng cục Hải quan đã chủ trì tổ chức buổi làm việc có sự tham gia của đại diện các cơ quan quản lý ngành đường sắt (Cục Đường sắt Việt Nam -  Bộ Giao thông Vận tải, Tổng công ty đường sắt Việt Nam…), đại diện các doanh nghiệp, để lắng nghe ý kiến đề xuất của các doanh nghiệp đồng thời triển khai việc khảo sát tại ga Kép, ga Sen Hồ, tỉnh Bắc Giang, nghiên cứu khả năng bố trí, sắp xếp lực lượng hải quan tại các ga này nếu được nâng cấp thành ga liên vận quốc tế. Giải pháp tạo thuận lợi thương mại, hỗ trợ hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa Để tăng cường tạo thuận lợi thương mại, hỗ trợ hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc, Bộ Tài chính kiến nghị một số giải pháp sau: Thứ nhất, giải pháp tăng cường xuất khẩu chính ngạch các mặt hàng nông sản qua các cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính như cửa khẩu Hữu Nghị, Lào Cai, Móng Cái: Đẩy mạnh xúc tiến thương mại trên môi trường số, thúc đẩy tiêu thụ nông sản qua các nền tảng, ứng dụng thương mại điện tử. Tăng Danh mục hàng hoá được phép xuất khẩu chính ngạch qua cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính và xây dựng cơ chế quản lý phù hợp đối với hoạt động mua bán, trao đổi của cư dân biên giới. Mở rộng, nâng cấp các cặp cửa khẩu đã đáp ứng đủ điều kiện theo quy định thành cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính (cửa khẩu song phương). Đẩy mạnh đàm phán với Trung Quốc về việc: Ký kết các Nghị định thư về kiểm dịch thực vât đối với các loại trái cây đang được xuất khẩu chính ngạch vào Trung Quốc để chuẩn hoá các yêu cầu kiểm dịch thực vật. Ngày 16/8/2022, Bộ Tài chính đã chỉ đạo Tổng cục Hải quan có công văn số 3388/TCHQ-HTQT về việc thúc đẩy tạo thuận lợi thông quan hàng hóa với Trung Quốc. Theo đó, Bộ Tài chính (Tổng cục Hải quan) đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét đàm phán, ký kết Nghị định thư kiểm dịch hàng hóa nông sản xuất khẩu với phía Trung Quốc để giảm tỷ lệ kiểm tra đối với hàng nông sản của Việt Nam, bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp, góp phần đẩy nhanh tốc độ thông quan hàng hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc. Đẩy nhanh tiến độ hoàn tất các thủ tục pháp lý, kỹ thuật để mở cửa thị trường Trung Quốc đối với các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Tăng số lượng các cửa khẩu được phép nhập khẩu nông sản từ Việt Nam. Các giái pháp hiệu quả Hiện nay, ngành Hải quan đã thực hiện thủ tục hải quan điện tử (VNACCS/VCIS) và trang bị điều kiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị, bố trí nhân lực đầy đủ để đảm bảo thực hiện thủ tục hải quan thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu qua cửa khẩu đường sắt được nhanh chóng, thuận tiện, đảm bảo việc kiểm tra giám sát hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, năng lực vận chuyển, bốc xếp hàng hóa và cơ sở hạ tầng tại ga chưa đáp ứng được xu hướng tăng lên của vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường sắt. Bộ Tài chính nhận thấy cần đầu tư cơ sở hạ tầng ngành đường sắt để đủ năng lực đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đang tăng lên của thị trường; tận dụng được lợi thế luôn thông suốt, ít bị tác động của dịch bệnh, góp phần giảm chi phí logistics, tăng lưu thông hàng hóa của hình thức vận tải bằng đường sắt liên vận quốc tế. Để đảm bảo phát triển hiệu quả việc vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu trên tuyến vận tải đường sắt, ngày 23/5/2022, Bộ Tài chính đã có công văn số 4612/BTC-TCHQ gửi Bộ Giao thông Vận tải đề nghị Bộ Giao thông Vận tải thực hiện một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả vận chuyển hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu bằng đường sắt như: Nhanh chóng đầu tư đồng bộ trong việc nâng cấp, đầu tư cơ sở hạ tầng tại nhà ga, bến bãi tại ga liên vận quốc tế Đồng Đăng, ga liên vận quốc tế Lào Cai và ga liên vận quốc tế Yên Viên. Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền quy hoạch bổ sung ga Kép tỉnh Bắc Giang và các ga đủ điều kiện cơ sở hạ tầng để nâng lên thành ga liên vận quốc tế. Đẩy mạnh việc xã hội hóa hoạt động kinh doanh vận tải đường sắt theo quy định tại Điều 5 Luật Đường sắt. Thúc đẩy, ứng dụng hệ thống công nghệ thông tin trong việc tiếp nhận, trao đổi dữ liệu về hàng hóa, phương tiện vận tải giữa các ga đường sắt liên vận quốc tế Việt Nam và Trung Quốc. Bộ Tài chính căn cứ quy hoạch, công bố ga đường sắt liên vận quốc tế và trên cơ sở năng lực, điều kiện cơ sở hạ tầng sẽ phối hợp với Bộ Giao thông Vận tải và các Bộ, ngành có liên quan để tổ chức bộ máy, bố trí lực lượng làm thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hàng hóa xuất nhập khẩu và nâng cao hiệu quả khai thác, thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu và phương tiện vận tải xuất nhập cảnh tại các ga liên vận quốc tế theo quy định của pháp luật nhằm hạn chế rủi ro, đảm bảo hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, giải quyết ùn tắc tại các cửa khẩu đường bộ trong bối cảnh dịch bệnh và phía Trung Quốc vẫn đóng cửa biên giới. Hồng Thiết

Doanh nhân Việt Nam với sứ mệnh phụng sự vì sức khỏe cộng đồng

TĐKT - Chương trình Doanh nhân Việt Nam với sứ mệnh phụng sự vì sức khỏe cộng đồng được Công ty Cổ phần công nghệ dược phẩm quốc tế Đại Việt tổ chức ngày 12/10 tại Hà Nội nhằm tri ân tới những người doanh nhân đã cống hiến hết mình vào thành công và phát triển cho nền kinh tế Việt Nam. Các doanh nhân chụp ảnh kỷ niệm Dự chương trình có GS.TS Nguyễn Lân Dũng, Cố vấn khoa học của Công ty Cổ phần công nghệ dược phẩm quốc tế Đại Việt, Chủ tịch Hội các ngành sinh học Việt Nam, Chuyên gia cao cấp Viện Vi sinh và Công nghệ sinh học; ông Nguyễn Hồng Quân - Chủ tịch Trung ương Giáo dục Chăm sóc Sức khỏe Cộng đồng Việt Nam; Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng; Nguyên Bộ trưởng Bộ xây dựng;TS Lê Công Lương - Trưởng ban Khoa học Công nghệ Liên hiệp hội Khoa học Công nghệ Việt Nam; PGS.TS. NGND Phạm Ngọc Khái - Chủ tịch Hội Dinh dưỡng Việt Nam; PGS.TS Nguyễn Huy Nga - Nguyên Cục trưởng Cục Y tế Dự phòng; PGS.TS NGND Nguyễn Võ Kỳ Anh - Phó Chủ tịch Hội Giáo dục Chăm sóc sức khỏe cộng đồng Việt Nam… Tại chương trình, các vị khách mời đã chia sẻ về lý do mà mỗi doanh nhân đều có nghĩa vụ phụng sự sức khỏe cộng đồng, tầm quan trọng của doanh nghiệp với sự chăm sóc sức khỏe cộng đồng... Doanh nhân Việt Nam với sứ mệnh phụng sự vì sức khỏe cộng đồng Việt Nam Trong đó, PGS.TS Nguyễn Võ Kỳ Anh chia sẻ, có nhiều yếu tố tác động quyết định đến sức khỏe con người, có thể kể đến: Những đặc điểm di truyền của cơ thể; môi trường là hoàn cảnh xung quanh cơ thể sống; hành vi và lối sống; chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe. "4 yếu tố trên liên quan chặt chẽ với nhau, cùng tác động lên sức khỏe. Trong 4 yếu tố quyết định sức khỏe thì có 3 yếu tố môi trường, dịch vụ chăm sóc sức khỏe và hành vi lối sống liên quan đến các doanh nghiệp và doanh nghiệp với mục đích kinh doanh của mình cần quan tâm đến các yếu tố đó để cho ra những sản phẩm/dịch vụ nhằm góp phần để thay đổi, cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống, sức khỏe, tuổi thọ cho cộng đồng. Các doanh nghiệp, doanh nhân mới khởi nghiệp hay đã lập nghiệp kinh doanh thành công không chỉ là thu về càng nhiều lợi nhuận càng tốt mà phải luôn quan tâm đến việc đảm bảo sản phẩm hoặc dịch vụ mà mình kinh doanh phải thỏa mãn nhu cầu của xã hội, của con người, trong đó đặc biệt cần coi trọng việc các sản phẩm/dịch vụ đó có đảm bảo an toàn cho sức khỏe của con người và môi trường không. Điều đó đòi hỏi các doanh nhân quản lý các doanh nghiệp không chỉ cần có các kiến thức, hiểu biết liên quan đến ngành kinh doanh mà còn phải có đạo đức kinh doanh, văn hóa kinh doanh, tôn trọng pháp luật và các quy chuẩn của xã hội. Kinh doanh phải dựa trên nền tảng, quy tắc chung của cộng đồng, đồng thời phải đi theo định hướng chung của doanh nghiệp". "Trong kinh doanh vì sức khỏe cộng đồng, cần phải lấy con người làm trung tâm. Yếu tố con người quyết định rất lớn cho sự thành công của doanh nghiệp. Doanh nghiệp, doanh nhân phải coi sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người và của cộng đồng xã hội' - PGS.TS Nguyễn Võ Kỳ Anh, khẳng định. Cùng quan điểm, GS.TS Nguyễn Lân Dũng - Cố vấn khoa học Công ty Cổ phần công nghệ dược phẩm quốc tế Đại Việt, Chủ tịch Hội các ngành sinh học Việt Nam, bày tỏ: "Nhằm thực hiện sứ mệnh phụng sự vì sức khỏe cộng đồng, các doanh nhân trước hết phải là những người yêu nước, yêu nhân dân, coi sức khỏe nhân dân là sức khỏe dân tộc. Để đảm bảo sức khỏe của nhân dân thì có thể là thuốc, là thực phẩm, hoặc là các thực phẩm bổ sung. Người dân họ có nhu cầu lớn về các sản phẩm chăm sóc sức khỏe, nhưng đắt quá thì họ không mua được. Vì vậy, các doanh nghiệp cần sản xuất các sản phẩm tốt, giá thành phải chăng để đông đảo người dùng có thể tiếp cận". GS.TS Nguyễn Lân Dũng cũng đánh giá cao chương trình Doanh nhân Việt Nam với sứ mệnh phụng sự vì sức khỏe cộng đồng, đặc biệt chương trình được tổ chức dịp kỷ niệm Ngày Doanh nhân Việt Nam (13/10). "Nhà khoa học chúng tôi nghiên cứu nhiều lắm nhưng để đưa vào sản xuất rất khó. Việc đưa vào sản xuất thử là sự cố gắng rất lớn của các doanh nhân, từ đó các công ty, tập đoàn biết tới sản phẩm rồi mới kinh doanh được. Cũng có thể nói Đại Việt sẽ là bài học kinh nghiệm, là cầu nỗi cho các doanh nhân - nhà khoa học để các sản phẩm nghiên cứu sản xuất thử. Sau này sẽ nhân rộng mô hình để sản xuất những sản phẩm khác nữa" - GS.TS Nguyễn Lân Dũng nói. Theo GS.TS Nguyễn Lân Dũng, các công trình nghiên cứu đều phải hướng tới sản phẩm có lợi nhuận cho doanh nghiệp, sản phẩm phải có ích cho đông đảo quần chúng. Khi người dân có nhu cầu sử dụng sản phẩm nhiều thì doanh nghiệp sẽ thấy và quyết định đầu tư để thu lợi nhuận. Tại sự kiện, ông Nguyễn Xuân Diệu - Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần công nghệ dược phẩm quốc tế Đại Việt bày tỏ: "Đại Việt hết sức quan tâm đến lĩnh vực khoa học. Chúng tôi đã xây dựng một viện khoa học mang tên Viện công nghệ Đại Việt để tập hợp các nhà khoa học hàng đầu. Có lẽ nhờ lý do đó mà Đại Việt đã giành giải Nhì giải thưởng sáng tạo Việt Nam năm 2021 đối với sản phẩm tảo xoắn; được Bộ Khoa học và Công nghệ tặng cờ tuyên dương về ứng dụng khoa học cho việc phát triển kinh doanh. Phát huy những gì đã đạt được, thời gian tới chúng tôi tiếp tục mời các chuyên gia, các tổ chức khoa học để cùng nghiên cứu và đưa những sản phẩm khoa học ứng dụng vào cuộc sống. Bên cạnh đó, tập đoàn Đại Việt cũng sẵn sàng hợp tác cùng các đơn vị đối tác đủ năng lực để sản xuất và phân phối các sản phẩm tảo, phục vụ sức khỏe của cộng đồng”. Hoài Nam (HT)  

Khai mạc Triển lãm và hội thảo quốc tế lần thứ 8 về máy công cụ, cơ khí chính xác và gia công kim loại

TĐKT - Triển lãm và hội thảo quốc tế lần thứ 8 về máy công cụ, cơ khí chính xác và gia công kim loại - MTA Hanoi, do công ty Informa Markets Vietnam tổ chức vừa chính thức khai mạc sáng 12/10. Sự kiện diễn ra từ ngày 12 - 14/10/2022 tại Trung tâm Triển lãm Quốc tế (I.C.E), Hà Nội. Ban Tổ chức thực hiện nghi thức khai mạc Triển lãm Với sự tham gia từ hơn 13 quốc gia và vùng lãnh thổ: Đức, Anh, Áo, Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Israel, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam và gần 100 đơn vị trưng bày trên diện tích 5000 m2, MTA Hanoi 2022 giới thiệu đến cộng đồng sản xuất - chế tạo hàng loạt các công nghệ và giải pháp tiên tiến phục vụ nhu cầu đầu tư thiết bị và máy móc tiếp tục tăng cao của doanh nghiệp ngay cả sau đại dịch. Bên cạnh đó, triển lãm tiếp tục mang đến các hoạt động bên lề bổ ích, tối ưu hóa trải nghiệm của khách tham dự. Chuỗi hội thảo hướng tới sản xuất thông minh cũng như công nghệ in và kỹ thuật số sẽ được các chuyên gia đầu ngành chia sẻ trong 3 ngày với 3 phiên hội thảo. Chuỗi hội thảo được xây dựng dựa trên các vấn đề thực tiễn của doanh nghiệp, mang tính ứng dụng cao, giúp doanh nghiệp có cái nhìn đủ và sâu hơn về ngành sản xuất tại Việt Nam, từ đó áp dụng và phát triển cho chính doanh nghiệp của mình. Triển lãm giới thiệu đến cộng đồng sản xuất - chế tạo nhiều công nghệ và giải pháp tiên tiến Bà Nguyễn Thị Ngọc Dung, đại diện công ty Informa Markets Vietnam cho biết: Theo dự báo sơ bộ, tổng nhu cầu thị trường cơ khí của Việt Nam từ nay đến năm 2030 có thể đạt hơn 300 tỷ USD. Với khoảng 25.000 doanh nghiệp cơ khí đang hoạt động, chiếm gần 30% tổng số doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo tại Việt Nam. Nhưng hiện nay ngành cơ khí Việt Nam mới chỉ đáp ứng khoảng gần 1/3 nhu cầu sản phẩm cơ khí trong nước, chính vì vậy, thị trường và cơ hội tiềm năng vẫn còn rất nhiều. Việc áp dụng sản xuất thông minh vào dây chuyền sản xuất, kiến tạo trong doanh nghiệp cơ khí chế tạo tại Việt Nam sẽ giúp các nhà máy nâng cao năng lực sản xuất một cách rõ rệt. Đây được xem là lợi ích hàng đầu và rõ nét nhất của bất kỳ một nhà máy nào khi ứng dụng tự động hóa và cũng là một cách tối đa hóa năng suất làm việc với các nguồn lực con người được kết nối. Cùng đó có thể giúp doanh nghiệp đạt được tính bền vững với phương pháp sản xuất phụ trợ: Giảm hàng tồn kho, giảm mức tiêu thụ năng lượng và giảm bớt các yêu cầu vận chuyển. Chuỗi triển lãm MTA nhận được sự quan tâm và tham gia tích cực từ cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc khối sản xuất - chế tạo, thu hút hàng trăm đơn vị trong và ngoài nước tham gia trưng bày, khai phóng cơ hội giao thương xúc tiến thương mại và hợp tác cho doanh nghiệp. Đây có thể nói là bệ phóng giúp lộ trình của ngành công nghiệp sản xuất tại Việt Nam tiến gần hơn với mục tiêu tăng trưởng 6% trong năm nay và 7,2% vào năm 2023. Phương Thanh

Cộng đồng doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng hiện thực hóa mục tiêu đưa phát thải ròng về 0

TĐKT - Ngày 11/10, tại Hà Nội, Tạp chí Kinh tế và Dự báo tổ chức Hội thảo "Hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng 0: Cơ hội và thách thức với các doanh nghiệp". Hội thảo được tổ chức nhằm giúp các doanh nghiệp và các bên liên quan cập nhật chính sách của Chính phủ liên quan đến phát thải ròng bằng 0; nhận diện các cơ hội và thách thức với các doanh nghiệp trong bối cảnh kinh doanh mới; đồng thời, góp phần đưa ra những kiến nghị, giải pháp cho doanh nghiệp Việt Nam giữ vững vị thế cạnh tranh, góp sức cùng Chính phủ hiện thực hóa các cam kết tại COP26. Hội thảo nằm trong chuỗi hoạt động kỷ niệm 55 năm ngày Tạp chí Kinh tế và Dự báo phát hành số đầu tiên (tháng 10/1967). Hội thảo "Hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng 0: Cơ hội và thách thức với các doanh nghiệp". Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Trần Quốc Phương, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết: Biến đổi khí hậu đã thực sự trở thành thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ 21, gây ảnh hưởng nghiên trọng đến sự phát triển bền vững của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Ngay sau khi Hội nghị ở Glassgow kết thúc, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050, đồng thời, đưa ra một lộ trình tổng thể nhằm hiện thực hóa các mục tiêu khí hậu đã cam kết bằng việc tạo hành lang pháp lý, thúc đẩy và hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp, các ngành, các địa phương cùng có trách nhiệm giảm phát thải ròng... Cộng đồng doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng hiện thực hóa mục tiêu đưa phát thải ròng về 0 nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững. Doanh nghiệp vừa là chủ thể chịu tác động của biến đổi khí hậu, vừa là đối tượng quan trọng trực tiếp tham gia, chuyển các thách thức thành cơ hội từ tác động của biến đổi khí hậu và tạo ra nguồn lực để thúc đẩy công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, triển khai các kế hoạch góp phần giảm phát thải khí nhà kính, thúc đẩy tăng trưởng xanh. "Thực hiện cam kết của Chính phủ đưa phát thải ròng về 0 đem đến thách thức, nhưng cũng tạo ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp. Đó là các cơ hội cho nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, cơ hội tiếp cận với nguồn tài chính xanh để đầu tư vào các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững doanh nghiệp" - Thứ trưởng Trần Quốc Phương nhấn mạnh. Tại hội thảo, ông Phạm Văn Tấn, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường khẳng định, việc thực hiện giảm phá thải khí nhà kính đòi hỏi phải chuyển đổi việc khai thác, sử dụng năng lượng hóa thạch sang năng lượng ít phát thải và tăng hấp thụ khí nhà kính. Ông Tấn chỉ rõ, các vấn đề xã hội liên quan đến việc chuyển đổi là rất lớn và thế giới đã đưa ra đòi hỏi "Chuyển đổi công bằng" đối với quá trình này. "Chuyển đổi công bằng nhằm đưa ra và thực hiện các giải pháp cần thiết để bảo đảm quyền và sinh kế của người lao động khi nền kinh tế chuyển dần sang sản xuất bền vững nhằm mục tiêu chống biến đổi khí hậu và bảo vệ đa dạng sinh học". Ông Tấn cũng cho biết, chuyển đổi năng lượng, thực hiện phát thải ròng bằng 0 là lựa chọn mang tính chiến lược của Việt Nam. "Chính phủ đã và đang thực hiện các bước đi nhanh và chắc chắn. Điều này tạo ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp và góp phần tăng lợi thế cạnh tranh về mặt dài hạn", ông Tấn nêu rõ và nhấn mạnh, các doanh nghiệp cần sẵn sàng, trong đó cần chuẩn bị về con người có đủ năng lực thực hiện kiểm kê khí nhà kính, xây dựng kế hoạch giảm nhẹ phát thải khí nhà kính của doanh nghiệp. Tại hội thảo, các nhà quản lý, các chuyên gia cũng như các doanh nghiệp cũng đã phân tích những cơ hội và thách thức, các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp về vốn, công nghệ, đào tạo... nhằm góp sức thực thi giảm phát thải khí nhà kính; phân tích kinh nghiệm và một số ý tưởng sáng tạo/công nghệ mới đang giúp các chuỗi sản xuất tiên tiến chuyển mình theo hướng giảm phát thải; những nỗ lực/khó khăn, thách thức/ kiến nghị từ các doanh nghiệp trong thực thi giảm phát thải nhà kính. Phương Thanh

Ứng dụng thẻ căn cước công dân gắn chip để định danh - xác thực điện tử trong ký kết hợp đồng điện tử

TĐKT - Hưởng ứng Ngày Chuyển đổi số quốc gia năm nay, sáng 10/10/2022, tại trụ sở Bộ Công an, Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Công an đã tổ chức khu triển lãm trưng bày về ứng dụng thẻ căn cước công dân (CCCD) gắn chip để định danh - xác thực điện tử trong ký kết Hợp đồng điện tử phục vụ thương mại điện tử. Triển lãm nằm trong khuôn khổ Hội nghị Chuyển đổi số lần thứ nhất và công bố ngày chuyển đổi số ngành Công an. Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự và chỉ đạo tại Hội nghị. Thủ tướng Phạm Minh Chính và lãnh đạo các bộ, ngành tham quan gian trưng bày chuyển đổi số của Bộ Công an Hướng tới mục tiêu để người dân được thụ hưởng những lợi ích của chuyển đổi số, để doanh nghiệp công nghệ số được tiếp cận với đông đảo khách hàng tiềm năng, ứng dụng thẻ CCCD gắn chip để định danh - xác thực điện tử trong ký kết hợp đồng điện tử phục vụ thương mại điện tử là một giải pháp tiện ích úp người tham gia ký kết hợp đồng điện tử sau khi hoàn thiện các nội dung ký sẽ phải xác minh danh tính người ký hợp đồng điện tử thông qua ứng dụng chip điện tử trên thẻ CCCD để đảm bảo xác minh thẻ thật và thông tin, sinh trắc học được lưu trữ trong chip điện tử. Nếu không có giải pháp này do Bộ Công an cung cấp, thông tin sẽ phải làm thủ công, giấy tờ hoặc xác minh danh tính công dân không đảm bảo chính xác. Ông Lê Đức Anh, Giám đốc Trung tâm tin học và Công nghệ số, Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số chia sẻ, việc ứng dụng thẻ CCCD gắn chip định danh - xác thực điện tử trong hoạt động ký kết hợp đồng điện tử đem lại giải pháp, tiện ích vô cùng quan trọng cho Bộ Công Thương khi triển khai Trục Hợp đồng điện tử Việt Nam trong việc hỗ trợ các tổ chức chứng thực hợp đồng điện tử Việt Nam định danh - xác thực điện tử chủ thể ký kết hợp đồng điện tử. Bên cạnh đó, với giải pháp này, các nhà cung cấp dịch vụ Hợp đồng điện tử hoàn toàn yên tâm để cung cấp dịch vụ về hợp đồng điện tử cho các tổ chức, cá nhân. Phù hợp với tính pháp lý do Bộ Công Thương quy định là người ký phải được xác thực danh tính gốc từ Bộ Công an. Trải nghiệm ứng dụng định danh – xác thực điện tử vào ký kết và chứng thực hợp đồng điện tử Tại khu trưng bày, Trung tâm tin học và Công nghệ số, Cục thương mại điện tử và Kinh tế số, Bộ Công Thương phối hợp với tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực hợp đồng điện tử (Công ty TNHH Hệ thống Thông tin FPT) cũng đã giới thiệu cho Thủ tướng Chính phủ, các đại biểu đến từ cơ quan ban, ngành về tiện ích của ứng dụng thẻ CCCD gắn chip để định danh - xác thực điện tử trong việc ký Hợp đồng điện tử giữa các bên. Đồng thời, hướng dẫn cho người dân và doanh nghiệp cách sử dụng, vận hành, tích hợp “Căn cước công dân gắn chip” cho việc định danh, xác thực, ký “hợp đồng điện tử” và chứng thực hợp đồng điện tử trên Trục phát triển hợp đồng điện tử Việt Nam. Ngày 22/4/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 505/QĐ-TTg về Ngày Chuyển đổi số quốc gia, lấy ngày 10 tháng 10 hằng năm là Ngày Chuyển đổi số quốc gia. Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban Chuyển đổi số quốc gia Phạm Minh Chính nhấn mạnh chuyển đổi số tác động tới mọi người dân, cho nên, phải lấy người dân làm trung tâm, chủ thể, mục tiêu, động lực cho chuyển đổi số. Mọi chính sách đều hướng về người dân và người dân cần tham gia vào quá trình chuyển đổi số. Có như vậy, chuyển đổi số mới mang tính toàn dân và toàn diện, mới mang lại lợi ích thiết thực cho người dân. Thực hiện chủ trương của Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành đẩy mạnh công tác chuyển đổi số, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển thị trường, tới đây Trung tâm tin học và Công nghệ số, Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, các cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các tổ chức trọng tài thương mại, các cơ quan giải quyết tranh chấp; các nhà cung cấp dịch hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin; các tổ chức chứng thực chữ ký số, dấu thời gian; các Tập đoàn, doanh nghiệp, tổ chức ứng dụng hợp đồng điện tử… nghiên cứu, xây dựng các giải pháp tối ưu hỗ trợ, phát triển, ứng dụng hợp đồng điện tử rộng rãi tại Việt Nam, với phương châm thúc đẩy hoạt động chuyển đổi số tại Việt Nam làm kim chỉ nam, xây dựng hạ tầng thương mại điện tử an toàn, nhanh chóng, tiện lợi, bảo mật. Phương Thanh

Trang