Phong trào thi đua

Bảo hiểm xã hội Việt Nam thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao

TĐKT - Thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, ngành Bảo hiểm xã hội (BHXH) tiếp tục triển khai nhiều giải pháp công tác nhằm thực hiện tốt chính sách BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT) theo đúng quy định của pháp luật. Với quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, BHXH Việt Nam đã tổ chức thực hiện nhiều phong trào thi đua trong toàn ngành hướng tới hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu, kế hoạch được Chính phủ giao và đạt được kết quả cao. Hội nghị trực tuyến Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Đào Việt Ánh cho biết, xác định mục tiêu xây dựng ngành BHXH hiện đại, chuyên nghiệp, hướng tới sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp là một trong những chủ đề trọng tâm và xuyên suốt, năm 2018, toàn ngành BHXH tiếp tục nỗ lực phấn đấu, vượt qua những khó khăn, thách thức, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền lợi hợp pháp của người tham gia, hưởng chế độ BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). Ước tính đến hết năm 2018, toàn quốc có 14,629 triệu người tham gia BHXH, đạt tỷ lệ 30,2% so với lực lượng lao động trong độ tuổi lao động. Số người tham gia BHTN khoảng 12,539 triệu người đạt tỷ lệ 25,9% so với lực lượng lao động trong độ tuổi lao động. Số người tham gia BHYT khoảng 82,38 triệu người đạt đạt tỷ lệ 87,7% dân số (vượt 2,31% so với chỉ tiêu được giao tại Quyết định số 1167/QĐ-TTg ngày 28/6/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh giao chỉ tiêu thực hiện BHYT giai đoạn 2016 - 2020). Kết quả, cùng với việc mở rộng diện bao phủ BHXH, BHYT, số thu về quỹ BHXH, BHYT cũng không ngừng gia tăng với tổng số thu ước đạt trên 329.000 tỷ đồng. Quyền lợi của người tham gia BHXH, BHYT được bảo đảm với gần 180 triệu lượt người được chi trả chi phí khám, chữa bệnh BHYT; trên 10 triệu lượt người được hưởng các chế độ BHXH, BHTN với tổng số tiền chi trả lên tới gần 300.000 tỷ đồng. Đặc biệt, chính sách BHXH, BHYT đã bảo đảm cuộc sống cho gần 3 triệu người nghỉ hưu cũng như tạo cơ hội được chăm sóc y tế cho hàng triệu người mắc các bệnh nan y, chi phí điều trị y tế của mỗi người lên tới hàng trăm triệu đồng, thậm chí là hàng tỷ đồng mỗi năm. Trên 87% dân số tham gia BHYT, trên 14 triệu người lao động đang tham gia BHXH, các vấn đề của BHXH, BHYT đang ngày càng trở nên thiết thân với mỗi người, mỗi nhà. Bảo đảm quyền lợi BHXH, BHYT cho nhân dân vì vậy còn góp phần quan trọng giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Nhận thức được vấn đề này, ngành BHXH Việt Nam đã nỗ lực đổi mới, hiện đại hóa, đẩy nhanh công cuộc cải cách thủ tục hành chính; chuyển đổi mạnh mẽ tác phong làm việc từ hành chính công sang phục vụ. Tiến hành cấp mã định danh cho người tham gia BHXH, BHYT BHXH Việt Nam chủ động, tích cực phối hợp với các bộ, ban, ngành và chính quyền địa phương quyết liệt tổ chức thực hiện kê khai, lập danh sách hộ gia đình tham gia BHYT trên toàn quốc cho hơn 92 triệu người với trên 24 triệu hộ gia đình. Sau khi rà soát, đến nay đã cơ bản hoàn thiện cơ sở dữ liệu hộ gia đình tham gia BHYT, quản lý tập trung thống nhất trong cả nước. Thông qua việc cấp cho mỗi người tham gia một mã số BHXH duy nhất, ngành BHXH thực hiện tập trung cơ sở dữ liệu quản lý thu, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT toàn quốc, liên thông với cơ sở dữ liệu thành viên hộ gia đình tham gia BHYT, Hệ thống phần mềm giám định BHYT và giải quyết chế độ chính sách. Qua đó đã góp phần quản lý chặt chẽ, hiệu quả đối tượng tham gia, thụ hưởng các chính sách về BHXH, BHYT, BHTN. Phát hiện và hạn chế tối đa tình trạng gian lận, vi phạm pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN để kịp thời đôn đốc, xử lý các trường hợp cố tình vi phạm; thực hiện cải cách thủ tục hành chính triệt để thông qua việc ban hành các quy trình, thành phần hồ sơ và thời hạn giải quyết lĩnh vực thu, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT, giao dịch điện tử và tiếp tục thực hiện cải cách trong lĩnh vực giải quyết chế độ chính sách, nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, đem lại sự hài lòng cho tổ chức và cá nhân khi giao dịch với cơ quan BHXH. Bên cạnh đó, công tác hội nhập quốc tế trong lĩnh vực BHXH, BHYT cũng ghi nhiều dấu ấn quan trọng, đặc biệt là việc tổ chức thành công Hội nghị Ban Chấp hành Hiệp hội An sinh xã hội lần thứ 35 và kỷ niệm 20 năm thành lập Hiệp hội đã để lại những dấu ấn quan trọng của BHXH Việt Nam với các tổ chức an sinh xã hội khu vực và quốc tế. Đồng thời, mở rộng diện bao phủ BHXH đến các năm 2021, 2025, 2030, tương ứng phải đạt bao phủ 35%, 45%, 60% lực lượng lao động tham gia BHXH, trong đó, yêu cầu phát triển BHXH tự nguyện với mục tiêu phải đạt từ 1%, 2,5%, 5% lực lượng lao động trong độ tuổi; với BHTN phải đạt 28%, 35%; 45% lực lượng lao động tương ứng đến các năm 2021, 2025, 2030. Diện bao phủ BHYT tuy đạt được kết quả khả quan, nhưng yêu cầu duy trì sự tham gia bền vững vẫn cần có những giải pháp mới. Bên cạnh đó là yêu cầu ngày một phức tạp hơn với công tác quản lý quỹ khám, chữa bệnh BHYT trong bối cảnh thực tiễn ngày một phát sinh nhiều áp lực khi thực hiện triệt để hơn lộ trình tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế. Công tác tổ chức thực hiện BHXH, BHYT cần có những bước chuyển mạnh mẽ hơn và năm 2019 sẽ đóng vai trò là năm bản lề, triển khai các biện pháp, từng bước đạt được mục tiêu vào năm 2021. Phát huy những thành tích đã đạt được, năm 2019, BHXH Việt Nam sẽ đẩy mạnh thực hiện các giải pháp đột phá phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT. Đối với BHXH tự nguyện, BHXH các tỉnh sẽ thành lập Ban Chỉ đạo khai thác, phát triển đối tượng tham gia, với sự tham gia của Bưu điện. Trên cơ sở đó, tham mưu cho tỉnh giao chỉ tiêu cho UBND cấp huyện/xã; đề nghị HĐND tỉnh hỗ trợ một phần mức đóng cho người tham gia; phối hợp với Bưu điện tổ chức hội nghị trực tiếp như phương án đã được phê duyệt. Đồng thời, tổ chức rà soát, đối chiếu dữ liệu tham gia BHXH, BHYT với dữ liệu của ngành Thuế để có giải pháp thu đúng, thu đủ BHXH, BHYT; tổ chức thanh tra đột xuất chuyên ngành đóng BHXH đối với ít nhất 50% số đơn vị nợ BHXH, BHYT từ 3 tháng trở lên và áp dụng phương thức tự động ban hành quyết định thanh tra chuyên ngành đóng BHXH đột xuất; kiên quyết xử lý hành chính và xử lý hình sự đối với đơn vị cố tình vi phạm theo quy định pháp luật. Hồng Thiết

Tập trung nghiên cứu, xây dựng chiến lược, chính sách ngành tài nguyên và môi trường

TĐKT - Chiều 27/12, tại Hà Nội, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) tổ chức Hội nghị tổng kết công tác năm 2018 và triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm 2019. Toàn cảnh Hội nghị Năm 2018 đánh dấu một năm hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao và Kế hoạch công tác năm của Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (TNMT). Viện đã triển khai mạnh mẽ các hoạt động nghiên cứu khoa học, đề xuất xây dựng và trình các đề án, nhiệm vụ phục vụ cho công tác quản lý Nhà nước của Bộ. Kết quả nổi bật là Viện đã hoàn thành 4 nhiệm vụ quan trọng: 2 đề án trình Chính phủ trong tháng 11/2018, Báo cáo "Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường" trình Ban Chỉ đạo Trung ương và "Kế hoạch hành động thực hiện các mục tiêu Phát triển bền vững Việt Nam đến 2030 của ngành TNMT" được Bộ ký ban hành trong tháng 12/2018. Kết quả này có được là từ sự quyết tâm, chỉ đạo của lãnh đạo Viện, sự đoàn kết, nhất trí và nỗ lực của toàn thể viên chức, người lao động trong Viện. Hoạt động nghiên cứu khoa học thực sự sôi động với số lượng lớn các nghiên cứu mới được triển khai. Kết quả thực hiện nhiệm vụ dự án, đề tài kết thúc đạt tiến độ và sản phẩm được giao nộp, tiếp nhận ở các đơn vị quản lý. Ngoài các báo cáo kết quả nghiên cứu, Viện có 8 ấn phẩm được phát hành, 27 bài báo được đăng tải trên các tạp chí trong và ngoài nước, 13 bài tham luận, báo cáo chuyên đề trình bày tại các Hội thảo trong và ngoài nước. Viện đang thực hiện 48 nhiệm vụ, bao gồm: 5 đề tài khoa học công nghệ (KHCN) cấp Quốc gia; 17 nhiệm vụ KHCN cấp Bộ; 18 nhiện vụ cấp cơ sở và 8 nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng. Ngoài ra, Viện quan tâm, chú trọng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ khoa học, khuyến khích đi đào tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước. Những hoạt động chính và kết quả nổi bật của Viện trong năm được trình bày trong Báo cáo thường niên năm 2018. Đây cũng là lần đầu tiên Viện nỗ lực, quyết tâm xây dựng và ban hành Báo cáo thường niên nhằm truyền tải đến các đối tác trong nước và quốc tế những thông tin về thành tựu, kết quả của hoạt động nghiên cứu, xây dựng chính sách ngành TNMT, triển khai các dự án trong nước, hợp tác quốc tế và các hoạt động đào tạo, tư vấn và dịch vụ của Viện trong năm, để các cấp lãnh đạo, các đối tác, các bên liên quan nhận diện và đánh giá rõ hơn về các hoạt động của Viện trong bối cảnh Viện cần thúc đẩy thực hiện cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập hiện nay. Năm 2019, Viện tiếp tục triển khai các công việc theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Trong đó, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, tập trung vào các vấn đề cấp thiết hiện nay trong quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu (quy hoạch bảo vệ môi trường, lộ trình giảm thiểu việc sử dụng túi ni lông và chất thải nhựa, các vấn đề liên quan đến quản ý đất đai, khoáng sản, tài nguyên nước, biến đổi khí hậu); tăng cường ứng dụng nghiên cứu định lượng trong các nghiên cứu của Viện; thực hiện các nghiên cứu về công cụ kinh tế trong quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phục vụ sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường. Cùng với đó, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Văn phòng Chính phủ và các đơn vị liên quan hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 2 đề án được giao; triển khai thực hiện 2 nhiệm vụ đã được Bộ giao; triển khai đánh giá, tổng hợp các vấn đề về TNMT phục vụ xây dựng Báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội 5 năm (2015 - 2020), kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021 - 2025) trình Đại hội XIII của Đảng. Tiếp tục nghiên cứu, đánh giá tác động của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đối với việc thực thi các quy định về TNMT của các doanh nghiệp Việt Nam và đề xuất giải pháp thích ứng; xây dựng cơ sở đánh giá thực hiện các chỉ tiêu phát triển bền vững TNMT đến năm 2030...  Phương Thanh

Thi đua thực hiện tốt ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa quản lý bảo hiểm xã hội

TĐKT - Cùng với việc thi đua đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, trong những năm gần đây, việc ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa quản lý bảo hiểm xã hội (BHXH) được BHXH Việt Nam hết sức chú trọng. Hơn 87% người dân tham gia bảo hiểm y tế (BHYT), trên 14 triệu người tham gia BHXH, tiến tới thực hiện BHXH toàn dân theo tinh thần cải cách chính sách BHXH đã được Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 xác định, để nâng cao chất lượng phục vụ người tham gia và hưởng BHXH, BHYT, hơn lúc nào hết, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa BHXH đã trở thành yêu cầu cấp thiết. Phó Giám đốc Trung tâm Công nghệ thông tin Nguyễn Hoàng Phương Phó Giám đốc Trung tâm Công nghệ thông tin (CNTT) Nguyễn Hoàng Phương cho biết, trong mấy năm trở lại đây, công tác ứng dụng công nghệ thông tin được BHXH Việt Nam đặc biệt quan tâm, thể hiện qua việc xây dựng Hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung toàn ngành; hệ thống cấp số định danh quản lý người tham gia BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) được thống nhất trên phạm vi toàn quốc... Đến nay BHXH Việt Nam đã cung cấp được 28 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4; tổng số số hồ sơ thực hiện giao dịch điện tử  gần 44 triệu hồ sơ điện tử giao dịch qua mạng. Hiện nay, toàn bộ ứng dụng CNTT ngành BHXH đã được triển khai theo kiến trúc Chính phủ điện tử được xây dựng theo Khung kiến trúc Chính phủ điện tử do Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành. Trung tâm Ðiều hành hệ thống CNTT của ngành BHXH được triển khai xây dựng và bắt đầu vận hành là kết quả tổng hợp từ một quãng thời gian dài hệ thống BHXH đồng thời phát triển hạ tầng kỹ thuật, nhân lực và đẩy mạnh ứng dụng CNTT… Năm 2017, 2018 được coi là năm đột phá với nhiều hoạt động phục vụ định hướng hiện đại hóa ngành BHXH được triển khai quyết liệt và có hiệu quả: Hệ thống lưu trữ hồ sơ điện tử ngành BHXH để số hóa tài liệu lưu trữ của ngành; phần mềm giao dịch điện tử trên tất cả các lĩnh vực thu, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT, giải quyết chế độ BHXH, BHTN; hệ thống một cửa điện tử tập trung trên cơ sở phần mềm "Tiếp nhận và quản lý hồ sơ"; cổng thông tin điện tử BHXH Việt Nam là điểm truy cập duy nhất của BHXH Việt Nam trên môi trường Internet cung cấp đầy đủ thông tin hoạt động, chủ trương, chính sách pháp luật về BHXH, BHYT, tiếp nhận các yêu cầu giao dịch điện tử, khai thác thông tin, dữ liệu về BHXH, BHYT của tổ chức, cá nhân. Nhất là việc đưa hệ thống thông tin giám định BHYT vào vận hành, kết nối gần 100% cơ sở khám, chữa bệnh BHYT từ tuyến xã đến Trung ương trên phạm vi toàn quốc để thực hiện quản lý khám, chữa bệnh, giám định và thanh toán BHYT. Ðồng thời, ngành BHXH đã tạo lập xong cơ sở dữ liệu cho hộ gia đình tham gia BHYT với thông tin của 92,6 triệu dân tương ứng với 24,3 triệu hộ gia đình toàn quốc. Để phấn đấu hơn nữa về phát triển công nghệ và phương tiện kỹ thuật tiên tiến, năm 2020, BHXH Việt Nam hoàn thành việc xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu điện tử về quản lý BHXH trong phạm vi cả nước. Trong năm 2019, ngành tiếp tục triển khai cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm, trong đó tiếp tục cập nhật mã số và đồng bộ thông tin định danh người tham gia; quản lý dữ liệu thu nộp BHXH, dữ liệu chi trả BHXH, quá trình hưởng và quá trình tham gia, thông tin đơn vị tham gia BHXH… Trên cơ sở đó, BHXH Việt Nam sẽ đề xuất các “hành lang” pháp lý cần thiết và tiến hành liên thông, cung cấp thông tin, dữ liệu với các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp nhằm góp phần vào việc kiến tạo Chính phủ điện tử cả quốc gia Trên nền tảng ứng dụng CNTT những năm vừa qua, ngành BHXH đang khẩn trương xây dựng hệ sinh thái 4.0, phục vụ người dân và doanh nghiệp với các dịch vụ: Dịch vụ tin nhắn (SMS); dịch vụ thanh toán trực tuyến; ứng dụng BHXH trên thiết bị di động; hệ thống Chatbot hỗ trợ khách hàng (trả lời chính sách BHXH, BHYT tự động bằng trí tuệ nhân tạo, tăng tính tương tác cao với người tham gia, cung cấp thông tin đóng, hưởng BHXH, BHYT và dự tính mức hưởng nhằm phục vụ người dân tốt hơn); phân tích, khai thác được lượng dữ liệu rất lớn của ngành trên BIGDATA; thiết lập Fanpage truyền thông trên hệ thống mạng xã hội; cung cấp tất cả các dịch vụ công có thể lên cấp độ 4. Song song với đó, BHXH Việt Nam phấn đấu đến năm 2020 hoàn thành việc xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu điện tử về quản lý BHXH liên thông, hiện đại với công nghệ mới nhất, hứa hẹn mang lại diện mạo mới cho ngành BHXH trong việc quản lý, cung cấp dịch vụ theo hướng tập trung, nhanh chóng, chính xác; hướng tới sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp, thực hiện mục tiêu đảm bảo an sinh xã hội bền vững. Cùng với đó, để đạt được những mục tiêu đã đề ra, toàn ngành BHXH sẽ tập trung triển khai bốn giải pháp: Thứ nhất, chú trọng việc cải cách hành chính song song với ứng dụng CNTT, tiếp tục rà soát và chuẩn hóa các các quy trình nghiệp vụ theo tiêu chí tích hợp và quản lý bằng công nghệ thông tin thay vì tin học hóa những quy trình thủ công đã có. Đây là cơ sở để ứng dụng CNTT có thể triển khai hiệu quả và tạo sự chuyển biến rõ rệt. Thứ hai, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm đảm bảo tính khả khi về nguồn lực triển khai; đáp ứng các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2019, đồng thời bám sát lộ trình, mục tiêu dài hạn về ứng dụng CNTT trong kế hoạch ứng dụng CNTT giai đoạn 2016 - 2020 của ngành. Thực hiện đa dạng hóa các hình thức triển khai tùy theo tình hình thực tế (thực hiện dưới hình thức dự án hoặc thuê dịch vụ CNTT theo quyết định 80/QĐ-TTg). Triển khai kiến trúc chính phủ điện tử của ngành phù hợp với khung kiến trúc Chính phủ điện tử quốc gia Thứ ba, tuyên truyền nâng cao hiểu biết, nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong toàn ngành về vai trò, lợi ích của việc ứng dụng CNTT, đồng thời nêu cao tinh thần sẵn sàng học hỏi nâng cao trình độ sử dụng CNTT; Đưa tiêu chí ứng dụng CNTT vào một trong những nội dung đánh giá kết quả hoàn thành công việc của các đơn vị, cán bộ trong ngành. Tiếp tục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ứng dụng CNTT của ngành kết hợp với thuê dịch vụ quản lý vận hành. Thứ tư, tiếp tục rà soát và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ những ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đối với các hoạt động về ứng dụng CNTT của ngành: Liên thông cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm; xác thực định danh điện tử; thẻ BHYT điện tử… Hồng Thiết

Khẳng định vai trò của doanh nghiệp, doanh nhân trẻ trong sự phát triển của đất nước

TĐKT – Từ Câu lạc bộ Doanh nhân trẻ Việt Nam được thành lập năm 1993 với 15 thành viên ban đầu, đến nay mạng lưới tổ chức Hội Doanh nhân trẻ (DNT) Việt Nam đã được thành lập tại 63/63 tỉnh, thành phố và 4 ngành kinh tế với hơn 10 ngàn hội viên, trở thành tổ chức xã hội nghề nghiệp hàng đầu trên cả nước, có tầm ảnh hưởng không nhỏ trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của Việt Nam, là cầu nối quan trọng đưa các chủ trương của Đảng, Nhà nước và Đoàn thanh niên đến với cộng đồng DNT Việt Nam. Các doanh nghiệp của hội viên đang tạo việc làm cho hơn 3 triệu lao động, tổng doanh thu hàng năm đạt trên 25 tỷ USD. Phong trào DNT Việt Nam qua từng giai đoạn đã hình thành một lớp doanh nhân trẻ tiêu biểu, nắm giữ các cương vị lãnh đạo chủ chốt trong các doanh nghiệp lớn của quốc gia. Họ đã và đang là những nhân tố góp phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế của đất nước. Trong 3 ngày 21 – 23/12, tại Hà Nội, Hội DNT Việt Nam tổ chức các hoạt động kỷ niệm 25 năm phong trào DNT Việt Nam, 15 năm giải thưởng Sao Vàng đất Việt và Lễ trao giải thưởng Sao Vàng đất Việt 2018. Đây là những hoạt động lớn và rất có ý nghĩa đối với cộng đồng doanh nghiệp và doanh nhân trẻ Việt Nam. Tọa đàm “Doanh nhân trẻ - 25 năm cùng khát vọng Việt Nam” Tọa đàm “Doanh nhân trẻ - 25 năm cùng khát vọng Việt Nam” được tổ chức chiều ngày 22/12/ 2018 có sự tham dự của gần 500 đại biểu doanh nhân trẻ là lãnh đạo doanh nhân trẻ Việt Nam các thời kỳ, lãnh đạo Hội DNT các tỉnh, thành, chuyên gia kinh tế và các doanh nghiệp hội viên Hội DNT Việt Nam. Các đại biểu chia sẻ tại Tọa đàm Tại tọa đàm, các đại biểu đã trao đổi về tình hình kinh tế Việt Nam trong 30 năm đổi mới và vai trò của kinh tế tư nhân, vai trò của DNT Việt Nam đối với sự phát triển kinh tế đất nước giai đoạn 2018 - 2038 cũng như xác định lại giá trị cốt lõi, tầm nhìn và trách nhiệm của một tổ chức đại diện cho tiếng nói của hàng trăm nghìn doanh nhân trẻ trong cả nước.  Sự có mặt, giao lưu của các anh/chị lãnh đạo Hội các thời kỳ: Trương Gia Bình, Phương Hữu Việt, Mai Hữu Tín, Bùi Văn Quân, Phạm Tấn Công, Vũ Văn Tiền…. như sự tiếp thêm sức mạnh, tinh thần đoàn kết, giữ vững niềm tin và giữ gìn ngọn lửa nhiệt huyết trong mỗi DNT Việt Nam hôm nay. GS.TS. Trần Đình Thiên – Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, bên cạnh những đóng góp không nhỏ của Hội DNT Việt Nam, cộng đồng doanh nghiệp, DNT cần tiếp tục phát huy hết nội lực, khẳng định vai trò, vị trí cũng như sứ mệnh của mình trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. 25 năm phong trào Doanh nhân trẻ Việt Nam Tối cùng ngày, Lễ kỷ niệm 25 năm phong trào Doanh nhân trẻ Việt Nam được  tổ chức trang trọng với sự tham gia của đồng chí Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương. Đây là dịp để các DNT nhìn lại những thành quả đạt được và những thực trạng đang tồn tại trong hoạt động và tổ chức Hội, từ đó xác định hướng đi mới cho phong trào DNT Việt Nam trên chặng đường sắp tới. Nghi thức truyền lửa cho phong trào DNT Việt Nam Phát biểu tại buổi lễ, đồng chí Nguyễn Văn Bình khẳng định: Trong suốt chiều dài xây dựng và phát triển, Hội DNT Việt Nam luôn tỏ rõ khát vọng đóng góp sức trẻ, trí tuệ, sức sáng tạo để làm giàu chính đáng cho quê hương, đưa đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu; đề nghị Hội DNT phấn đấu để thật sự trở thành cầu nối giữa DNT và chính quyền; luôn đổi mới để tập hợp, thu hút thêm nhiều tài năng trẻ tham gia Hội, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Cũng tại Lễ kỷ niệm, việc giới thiệu các tính năng ưu việt trong ứng dụng App Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam được coi là một điểm nhấn trong chương trình. Thông qua việc sử dụng công nghệ kỹ thuật số như một vũ khí chiến lược, App “Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam” mang sứ mệnh tạo nên một Hệ sinh thái kinh doanh – nơi mọi thông tin về kinh doanh hiện lên trước mắt hội viên, bắt đầu từ những nhu cầu thiết thực nhất, trở thành tính năng chính thống của App: Kêu gọi vốn, kết nối giao thương, tư vấn pháp lý và kiến thức quản trị. Mỗi tính năng đều thể hiện sự ưu việt trong việc mở rộng mạng lưới liên kết (net-working) của Hội viên, đồng thời, giữ vai trò chủ đạo trong việc kết nối giao thương nội địa và quốc tế. Dự kiến Phiên bản cập nhật mới nhất của APP sẽ xuất hiện trên tất cả nền tảng Android và IOS vào tháng 01/2019. Doanh nghiệp đăng ký tham gia theo mẫu tại địa chỉ  http://www.dntvn.org.vn/vn/dang-ky. Trao giải thưởng Sao Vàng đất Việt Năm 2018, Giải thưởng Sao Vàng đất Việt đánh dấu chặng đường 15 năm triển khai thành công để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và toàn xã hội. Ngày 23/12, Lễ kỷ niệm 15 năm giải thưởng Sao Vàng đất Việt và Lễ trao giải thưởng 2018 được tổ chức trang trọng tại Hà Nội, được tường thuật trực tiếp trên kênh VTV6, Đài truyền hình Việt Nam. Top 10 doanh nghiệp nhận Giải Sao Vàng Đất Việt 2018  Qua 15 năm triển khai, 11 lần tổ chức đã có hơn 6.000 lượt thương hiệu, sản phẩm đăng ký tham gia, trong đó 2.127 lượt thương hiệu, sản phẩm được tôn vinh trao giải. Nhiều doanh nghiệp, thương hiệu, sản phẩm Việt Nam được vinh danh từ Giải thưởng Sao Vàng đất Việt đã có mặt trong các bảng xếp hạng của khu vực, của thế giới, trở thành những doanh nghiệp có tầm ảnh hưởng, dẫn dắt đối với nền kinh tế Việt Nam. Có thể nhắc tới các thương hiệu: Vingroup, FPT, Thaco, Hòa Phát, Việt Tiến, Gleleximco, Traphaco, Thiên Long, Trung Nguyên, Eurowindow, Viettinbank, TTC group… Năm 2018, Giải thưởng Sao Vàng đất Việt được triển khai bình chọn và tôn vinh những doanh nghiệp có chỉ số kinh doanh tốt, phát triển ổn định, bền vững, duy trì số lao động, quan tâm đến trách nhiệm đối với người lao động và xã hội. Trong vòng 2 tháng triển khai, gần 400 thương hiệu được lựa chọn, đề cử từ các tỉnh, thành trên toàn quốc đã đăng ký tham gia giải thưởng. Quy trình bình chọn được tiến hành theo ba vòng: Sơ tuyển, Thẩm định thực tế và Chung tuyển. TOP200 thương hiệu Sao Vàng đất Việt 2018 tạo ra trên 912 ngàn tỷ đồng doanh thu, nộp ngân sách trên 72 ngàn tỷ đồng, tạo việc làm cho trên 417 ngàn lao động. Các thương hiệu được bình chọn TOP10 Sao Vàng đất Việt 2018 đều thuộc các doanh nghiệp hàng đầu: VINGROUP, FPT, HÒA PHÁT, TTC, TRAPHACO, THIÊN LONG, XÂY DỰNG HÒA BÌNH, GỖ AN CƯỜNG, THỦY SẢN MINH PHÚ, CENLAND. Cùng trong đợt cao điểm kỷ niệm 25 năm phong trào doanh nhân trẻ Việt Nam, Hội DNT Việt Nam đã tổ chức một chuỗi các hoạt động thể thao chào mừng: Giải Bóng đá, giải Golf, giải Tennis Doanh nhân trẻ toàn quốc... tại Hà Nội trong ngày 21 - 22/12/2018. Mai Thảo  

Công tác thi đua, khen thưởng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động trong ngành Tài chính

TĐKT - Trong năm 2018, công tác thi đua, khen thưởng (TĐKT) của Bộ Tài chính đã được triển khai thực hiện nghiêm túc theo đúng tinh thần chỉ đạo của lãnh đạo Bộ. Công tác TĐKT từng bước đi vào nền nếp, đảm bảo chính xác, khách quan, đáp ứng được yêu cầu của lãnh đạo Bộ đề ra. Vụ trưởng Vụ TĐKT Bộ Tài chính Nguyễn Hùng Minh báo cáo kết quả công tác TĐKT năm 2018 Vụ trưởng Vụ TĐKT Nguyễn Hùng Minh cho biết, năm 2018 là năm thứ 4, toàn hệ thống đã triển khai có nền nếp việc đánh giá cán bộ với thi đua, bình xét khen thưởng, đặc biệt đã gắn trách nhiệm của người đứng đầu với chất lượng, cấp độ hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và gắn liền với cải cách thủ tục hành chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác TĐKT. Trong thời gian qua, Vụ TĐKT cùng với một số đơn vị thuộc Bộ đã khảo sát thực trạng việc khai thác và sử dụng phần mềm quản lý TĐKT 2.0 tại 7 đơn vị (gồm Cơ quan Tổng cục Thuế, Thuế Hà Nội, Thuế Bắc Ninh, Kho bạc Bắc Ninh; Tổng cục Dự trữ Nhà nước, Cục Dự trữ Hà Bắc và Học viện Tài chính). Cuộc khảo sát đã giúp cho các cán bộ kỹ thuật, cán bộ làm công tác TĐKT nắm rõ được các hạn chế của phần mềm quản lý TĐKT 2.0 đang gặp phải hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp, các yêu cầu về nghiệp vụ TĐKT để chỉnh sửa, nâng cấp phần mềm nhằm đáp ứng việc khai thác sử dụng. Nhờ được đẩy mạnh, công tác TĐKT đã mang lại hiệu quả thiết thực trong ngành tài chính. Kết quả, trong tháng 11, tổng thu cân đối ngân sách Nhà nước (NSNN) thực hiện ước đạt 93,4 nghìn tỷ đồng. Lũy kế thu 11 tháng đạt 1.222,7 nghìn tỷ đồng, bằng 92,7% dự toán năm, bằng 90% mức đánh giá thực hiện cả năm báo cáo Quốc hội, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó, thu nội địa thực hiện tháng 11 ước đạt 70 nghìn tỷ đồng. Lũy kế thu 11 tháng đạt 975,4 nghìn tỷ đồng, bằng 88,7% dự toán, tăng 15,3% so cùng kỳ năm 2017. Không kể các khoản như thu tiền sử dụng đất, thu xổ số kiến thiết, thu cổ tức và lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp nhà nước, thu hồi vốn NSNN đầu tư tại các tổ chức kinh tế và thu chênh lệch thu, chi của Ngân hàng Nhà nước thì số thu nội địa còn lại ước đạt 742,9 nghìn tỷ đồng, bằng 85,6% dự toán năm, tăng khoảng 13% so cùng kỳ năm 2017 (cùng kỳ năm 2017 đạt 83,5% dự toán năm, tăng 9,6%). Ước đến hết tháng 11/2018, có 48/63 địa phương thu nội địa đạt tiến độ dự toán (trên 92%) và hầu hết các địa phương thu đạt cao hơn so cùng kỳ năm 2017. Công tác quản lý thu nội địa 11 tháng đầu năm đã đạt nhiều tiến bộ. Tính đến ngày 26/11/2018, cơ quan Thuế đã thực hiện gần 78,6 nghìn cuộc thanh tra, kiểm tra thuế tại doanh nghiệp và kiểm tra trên 424,96 nghìn hồ sơ tại trụ sở cơ quan Thuế, kiến nghị xử lý thu vào NSNN gần 15,4 nghìn tỷ đồng (số đã nộp vào NSNN 10,2 nghìn tỷ đồng); chống chuyển giá, giảm lỗ trên 25,1 nghìn tỷ đồng; thu hồi được 28,1 nghìn tỷ đồng nợ thuế. Trong tháng 12/2018, cơ quan Thuế các cấp tiếp tục triển khai quyết liệt công tác thu hồi nợ và cưỡng chế nợ thuế, phấn đấu đưa tổng số nợ thuế đến thời điểm 31/12/2018 không vượt quá 5% tổng thu NSNN như mục tiêu đề ra. Tính đến ngày 15/11/2018, cơ quan Hải quan đã thực hiện 6,5 nghìn cuộc kiểm tra sau thông quan, xử lý thu vào ngân sách 2.000 tỷ đồng; đôn đốc, xử lý thu hồi 1.333 tỷ đồng nợ thuế; phát hiện, bắt giữ, xử lý trên 15,5 nghìn vụ việc vi phạm trong lĩnh vực hải quan, xử lý tăng thu cho ngân sách 306 tỷ đồng; cơ quan Hải quan đã khởi tố 62 vụ và chuyển các cơ quan khởi tố 99 vụ. Thu từ dầu thô thực hiện tháng 11 ước đạt 6,2 nghìn tỷ đồng, lũy kế thu 11 tháng đạt 57,9 nghìn tỷ đồng, bằng 161,4% dự toán năm, tăng 41,1% so cùng kỳ năm 2017. Thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu: Thực hiện tháng 11 ước đạt 28,3 nghìn tỷ đồng, lũy kế thu 11 tháng đạt 283,5 nghìn tỷ đồng, bằng 100,2% dự toán năm, tăng 8,3% so cùng kỳ năm 2017. Sau khi thực hiện hoàn thuế giá trị gia tăng theo chế độ (98,2 nghìn tỷ đồng), thu cân đối NSNN đạt 185,2 nghìn tỷ đồng, bằng 103,5% dự toán năm, tăng 7,6% so cùng kỳ năm 2017. Tổng chi NSNN tháng 11 ước đạt 105,7 nghìn tỷ đồng. Lũy kế chi NSNN 11 tháng đạt 1.210,6 nghìn tỷ đồng, bằng 79,5% dự toán năm, tăng 7,8% so cùng kỳ năm 2017, trong đó: Chi đầu tư phát triển đạt 239,6 nghìn tỷ đồng, đạt xấp xỉ 60% dự toán năm, tăng 6,7%; chi trả nợ lãi đạt 98,1 nghìn tỷ đồng, bằng 87,2% dự toán năm, tăng 13,4%, đảm bảo thanh toán đầy đủ, kịp thời nghĩa vụ nợ đến hạn theo cam kết; chi thường xuyên đạt 841,7 nghìn tỷ đồng, bằng 89,5% dự toán năm, tăng 4,3%, theo đúng dự toán và tiến độ thực hiện của các đơn vị sử dụng ngân sách. Tính đến hết ngày 30/11/2018, lũy kế chi thường xuyên đã thực hiện kiểm soát qua hệ thống Kho bạc Nhà nước đạt 76,6% dự toán. Thông qua công tác kiểm soát chi NSNN, các đơn vị Kho bạc Nhà nước đã phát hiện ước khoảng 14.105 khoản chi chưa đủ thủ tục theo quy định, đã yêu cầu bổ sung các thủ tục cần thiết và số tiền thực từ chối thanh toán là 35,2 tỷ đồng. Cân đối ngân sách trung ương và ngân sách các cấp địa phương được đảm bảo. Đến ngày 26/11/2018 đã thực hiện phát hành 148,7 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, đáp ứng đủ nguồn để bù đắp bội chi và trả nợ gốc tiền vay của ngân sách trung ương theo dự toán. Phát huy những kết quả đạt được trong năm 2018, công tác TĐKT năm 2019 của Bộ Tài chính tập trung vào các nội dung: Tiếp tục tổ chức phát động và triển khai thực hiện thắng lợi phong trào thi đua toàn ngành ngay từ đầu năm 2019 với khẩu hiệu “Đẩy mạnh kỷ cương, chỉ đạo quyết liệt, phối hợp đồng bộ, triển khai kịp thời, phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ tài chính - ngân sách năm 2019” với 6 nội dung thi đua và 4 biện pháp thực hiện. Cùng với đó, bám sát quá trình xét khen thưởng và tiến độ trình tại các Cơ quan Trung ương (Ban TĐKT Trung ương, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước), đảm bảo sớm có kết quả khen thưởng thành tích năm 2018, chuẩn bị cho nội dung họp Hội nghị dân chủ tại Bộ và các đơn vị cấp Tổng cục. Đặc biệt, hướng tới Kỷ niệm 75 năm ngày truyền thống của ngành Tài chính Việt Nam và Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X vào năm 2020, Bộ Tài chính sẽ đẩy mạnh hơn nữa công tác TĐKT, tập trung tuyên truyền các điển hình và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác TĐKT của ngành Tài chính. Với những thành tích đã đạt được về công tác khen thưởng năm 2018, Bộ Tài chính đã có 2.160 tập thể được tặng danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc, trong đó 137 tập thể được tặng Cờ thi đua của Bộ. 19 tập thể đã được tặng Cờ thi đua của Chính phủ. 3 cá nhân thuộc Tổng cục Dự trữ Nhà nước được tặng Huân chương Lao động các hạng (1 Huân chương Lao động hạng Nhì; 2 Huân chương Lao động hạng Ba); 1 tập thể  và 40 cá nhân thuộc Tổng cục Hải quan được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Hồng Thiết

Chủ động đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành công tác thi đua - khen thưởng và phong trào Thi đua Quyết thắng

TĐKT - Sáng 14/12, tại Hà Nội, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng (TĐKT) Bộ Quốc phòng tổ chức Phiên họp cuối năm 2018. Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng TĐKT Bộ Quốc phòng chủ trì phiên họp. Cùng dự có Thượng tướng Phạm Hồng Hương, Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng TĐKT Bộ Quốc phòng; đại diện lãnh đạo các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng. Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa phát biểu tại phiên họp Tại phiên họp, các đại biểu đã tập trung thảo luận, phân tích, đánh giá về kết quả tổ chức thực hiện công tác TĐKT Bộ Quốc phòng năm 2018. Công tác TĐKT năm 2018 đã được Quân ủy Trung ương, Bộ quốc phòng, Tổng cục Chính trị, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, chỉ huy các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm. Phong trào Thi đua Quyết thắng ở các cơ quan, đơn vị trong toàn quân diễn ra liên tục, rộng khắp, có chiều sâu với nhiều cách làm hay, đổi mới, sáng tạo, gắn kết chặt chẽ với phong trào thi đua yêu nước ở địa phương và các cuộc vận động của các cấp, các ngành; luôn gương mẫu đi đầu trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) và Chỉ thị 05 - CT/TW của Bộ Chính trị gắn với Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Bên cạnh đó, toàn quân luôn giữ vững đoàn kết, kiên định niềm tin, cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn và sự chống phá quyết liệt của kẻ thù; huấn luyện giỏi, sẵn sàng chiến đấu cao; chủ động phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ cứu nạn; tăng cường đối ngoại quốc phòng và hội nhập quốc tế; kịp thời cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ toàn quân phát huy truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước, nêu cao ý chí quyết tâm sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Công tác khen thưởng được tiến hành công khai, minh bạch, kịp thời, gắn kết chặt chẽ với phong trào thi đua. Qua đó, tạo động lực quan trọng, trực tiếp góp phần xây dựng các tổ chức, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2018. Trong năm, toàn quân đã đề nghị Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Thủ trưởng Bộ Quốc phòng khen thưởng hơn 51 nghìn lượt tập thể, cá nhân, tăng 45% so với năm 2017. Với tư tưởng chỉ đạo: "Giữ vững đoàn kết, không ngừng sáng tạo, tăng cường kỷ cương, đề cao nêu gương, thi đua quyết thắng", Hội đồng TĐKT quyết định chủ đề phong trào Thi đua Quyết thắng năm 2019 là "Đoàn kết, sáng tạo, kỷ cương, nêu gương, quyết thắng". Theo đó, phong trào Thi đua Quyết thắng năm 2019, tập trung thi đua xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện; giữ vững đoàn kết, tăng cường kỷ cương, đề cao nêu gương, thường xuyên chăm lo xây dựng đơn vị vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Phát huy cao độ tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tăng cường kỷ cương trong triển khai tổ chức thực hiện, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao. Đẩy mạnh thi đua nâng cao chất lượng hiệu quả thực hiện "Ba khâu đột phá" theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X. Phát biểu tại phiên họp, Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa biểu dương và đánh giá cao sự đoàn kết, thống nhất cao của các cơ quan, đơn vị toàn quân trong tổ chức thực hiện công tác TĐKT thời gian qua; đồng thời yêu cầu, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân tiếp tục chủ động đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành công tác TĐKT và phong trào Thi đua Quyết thắng, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; tiếp tục thực hiện hiệu quả Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, tạo động lực mới góp phần xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại… Nguyên Hải

Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ VII

TĐKT - Với chủ đề “Dân chủ - Đoàn kết - Đổi mới - Hội nhập - Phát triển”, ngày 12/12, tại Hà Nội, Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ VII đã chính thức khai mạc. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng dự và phát biểu chỉ đạo Đại hội. Cùng dự Đại hội có các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và 999 đại biểu đại diện cho trên 10 triệu hội viên, nông dân trong cả nước. 5 năm qua, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và tạo điều kiện thuận lợi của Chính phủ, Hội Nông dân Việt Nam đã phát huy hiệu quả vai trò trung tâm và nòng cốt, giai cấp nông dân đã thực hiện tích cực vai trò chủ thể, góp phần thúc đẩy nông nghiệp, nông dân, nông thôn tiếp tục phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng Hội Nông dân Việt Nam không ngừng lớn mạnh. Các đại biểu dự Đại hội Các cấp hội đã phát động và đẩy mạnh phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững, phong trào nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới, phong trào nông dân tham gia đảm bảo quốc phòng, an ninh. Tổ chức có hiệu quả các hoạt động tư vấn, hỗ trợ, dịch vụ, dạy nghề cho nông dân, phát triển các hình thức kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong nông nghiệp ngày càng đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao hơn... Đại hội đã chỉ ra chỉ tiêu phấn đấu của Hội trong nhiệm kỳ mới (2018 - 2023): Có 100% cán bộ, hội viên được tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của Hội Nông dân Việt Nam. 100% cán bộ chuyên trách công tác Hội được tập huấn, bồi dưỡng cập nhật kiến thức canh tác nông nghiệp và kỹ năng công tác nông vận. 100% chi hội xây dựng được Quỹ hoạt động của Hội và phấn đấu mỗi cơ sở Hội ở các địa phương chưa thoát nghèo, hằng năm, có từ 60% số hộ nông dân trở lên đăng ký phấn đấu và có từ 50% số hộ đăng ký trở lên đạt danh hiệu sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp.... Để đạt được các chỉ tiêu trên, trong nhiệm kỳ mới, Hội Nông dân xác định thực hiện có hiệu quả 5 nhóm nhiệm vụ và giải pháp: Xây dựng tổ chức Hội và giai cấp nông dân Việt Nam vững mạnh; vận động hội viên, nông dân phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới văn minh và giảm nghèo bền vững; tham gia xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế… TổngBí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phát biểu chỉ đạo tại Đại hội Phát biểu tại Đại hội, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng biểu dương và đánh giá cao những nỗ lực, cống hiến của giai cấp nông dân và hoạt động của các cấp Hội Nông dân trong cả nước. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhấn mạnh: Đảng, Nhà nước ta đã xác định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh - quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã định hướng "xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu". Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong bối cảnh tình hình mới, phát triển bền vững, hiện đại nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước yêu cầu các cấp Hội Nông dân cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, vận động, đoàn kết nông dân thực sự trở thành lực lượng cách mạng, lực lượng kinh tế, chính trị, xã hội to lớn và mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước. Mỗi cán bộ, hội viên, nông dân cần hiểu rõ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp của toàn dân, trong đó, hội viên, nông dân đóng vai trò chủ thể, vừa là lực lượng thực hiện, vừa là người được thụ hưởng thành quả, để từ đó huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của giai cấp nông dân và các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài, làm cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta có bước phát triển nhanh và bền vững hơn nữa; phấn đấu thực hiện mục tiêu xây dựng một nền nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại. Ông Thào Xuân Sùng tái đắc cử Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam khóa VII, nhiệm kỳ 2018 - 2023. Tại hội nghị, với 100% phiếu bầu, đồng chí Thào Xuân Sùng, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam khóa VI tái đắc cử Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam khóa VII, nhiệm kỳ 2018 - 2023. Thục Anh

Phụ nữ Hoa Lư giúp nhau phát triển kinh tế, giảm nghèo

TĐKT - Xác định hỗ trợ hội viên phụ nữ phát triển kinh tế là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, góp phần xây dựng cuộc sống gia đình ấm no, hạnh phúc, thời gian qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) huyện Hoa Lư (tỉnh Ninh Bình) đã có nhiều hoạt động thiết thực, giúp hội viên phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống. Mô hình nuôi trai lấy ngọc của gia đình chị Bùi Thị Thu Hằng ở xóm Tây, xã Ninh Giang Bà Phạm Thị Kim Oanh, Chủ tịch Hội LHPN huyện Hoa Lư cho biết: Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế được Hội LHPN huyện Hoa Lư xác định là nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong quá trình công tác. Qua đó, đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho hội viên, phụ nữ; thực hiện hiệu quả mục tiêu giảm nghèo của địa phương... Bởi vậy, Hội LHPN huyện đã chỉ đạo các cấp hội phụ nữ thường xuyên tổ chức các hoạt động tuyên truyền, vận động hội viên phụ nữ phát huy nội lực, chủ động tham gia phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững. Đồng thời, tổ chức các phong trào thi đua: “Vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống”; các mô hình “Giúp phụ nữ thoát nghèo”, hoạt động “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp”; thành lập “Tổ liên kết kinh doanh dịch vụ du lịch văn minh”… tạo điều kiện cho phụ nữ được nâng cao kiến thức, tích cực lao động, sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng cuộc sống. Cũng theo bà Oanh, bên cạnh việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, trọng tâm là xây dựng, triển khai các mô hình mới, thiết thực, sát với nhiệm vụ chính trị, phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của các chị em hội viên, phụ nữ, các cấp hội phụ nữ huyện đặc biệt chú trọng đến hoạt động hỗ trợ vốn cho các hội viên, phụ nữ nghèo có hoàn cảnh khó khăn phát triển kinh tế được các cấp hội chú trọng thực hiện. Tính riêng những tháng đầu năm 2018, Hội đã khai thác thêm được gần 60 tỷ đồng, cho gần 400 hộ vay, đưa tổng dư nợ hiện nay lên gần 200 tỷ đồng, cho gần 4 nghìn lượt người vay, trong đó có gần 500 hộ phụ nữ nghèo. Đến nay, trên địa bàn huyện Hoa Lư đã thành lập được 30 tổ liên kết, tổ vay vốn ở 100% xã, thị trấn.  Riêng năm 2017, các cơ sở Hội đã giúp đỡ gần 40 hộ phụ nữ nghèo thoát nghèo. Song song với việc hỗ trợ về vốn, các cấp hội phụ nữ trên địa bàn huyện còn phối hợp tổ chức được hàng chục lớp dạy nghề khâu chăn bông xuất khẩu, đan cói, bèo bồng, nâng cao tay nghề thêu, hướng dẫn viên du lịch, lớp dạy duy trì nghề thêu, may công nghiệp, khâu chăn bông xuất khẩu… Đồng thời phối hợp với Trung tâm Khuyến nông tỉnh, Trạm khuyến nông huyện, HTX nông nghiệp... tổ chức các lớp chuyển giao khoa học kỹ thuật về kỹ thuật thâm canh trong sản xuất nông nghiệp, phòng, chống dịch bệnh trong chăn nuôi… Từ những kiến thức được tiếp thu tại các lớp tập huấn cùng với những nguồn vốn vay tín chấp qua hội, đặc biệt là sự nhiệt tình, năng động của đội ngũ cán bộ hội, nhiều mô hình kinh tế giỏi được xây dựng trên địa bàn, nhiều mô hình được biểu dương, khen thưởng. Điển hình như mô hình phát triển kinh tế tổng hợp VAC của gia đình chị Bùi Thị Thu Hằng, xóm Tây, xã Ninh Giang. Trên diện tích gần 2 ha, chị Hằng đã đầu tư trên 2 tỷ đồng xây dựng, quy hoạch hệ thống chăn nuôi liên hoàn, nuôi trên 2 nghìn con gà lai Đông Tảo, trên 10 nghìn con trai nước ngọt lấy ngọc và thả hàng nghìn cá giống các loại, mỗi năm thu hoạch 5 - 6 tấn cá thương phẩm. Doanh thu từ chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản mỗi năm trừ chi phí, gia đình chị Hằng còn lãi vài trăm triệu đồng. Qua hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, Hội LHPN huyện Hoa Lư đã phát huy tốt vai trò của mình giúp chị em tăng thu nhập, phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, từng bước vươn lên làm giàu, khẳng định vai trò, vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội, góp phần thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội của huyện đề ra. Tùng Chi  

Nhân lên những mô hình thi đua hiệu quả trong phụ nữ Quân đội

TĐKT - Trong 3 năm qua, phong trào thi đua yêu nước của phụ nữ Quân đội đã phát triển trên cả diện rộng và chiều sâu, được duy trì thường xuyên, liên tục bằng các mô hình hiệu quả, thiết thực, gắn kết chặt chẽ với các cuộc vận động và phong trào thi đua Quyết thắng của toàn quân, thu hút đông đảo lực lượng tham gia, tạo động lực to lớn động viên cán bộ, hội viên hăng hái thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. "Bát nước thao trường" của Hội Phụ nữ Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình động viên chiến sĩ sau giờ huấn luyện Nhận thức đúng đắn vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của phong trào thi đua trong tình hình mới, những năm qua, cấp ủy, người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị các cấp đã nghiêm túc tổ chức quán triệt tới toàn thể cán bộ, hội viên phụ nữ các quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương về công tác thi đua, khen thưởng, đổi mới công tác thi đua – khen thưởng và xây dựng, nhân rộng điển hình tiên tiến. Thượng tá Phùng Thị Phú, Trưởng Ban Phụ nữ Quân đội cho biết: Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc nhiệm kỳ 2017 – 2022, Chương trình hành động của Phụ nữ Quân đội 5 năm (2016 - 2021), 3 năm qua, đặc biệt là từ năm 2016 đến nay, toàn quân đã tập trung nâng cao chất lượng và hiệu quả phong trào thi đua “Phụ nữ Quân đội đoàn kết - sáng tạo, hoàn thành tốt nhiệm vụ, xây dựng gia đình hạnh phúc, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” gắn với thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 87 của Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”. Nội dung thi đua của phụ nữ luôn được xác định là một trong những nội dung trong phong trào thi đua Quyết thắng của đơn vị. Các đơn vị đã quan tâm bồi dưỡng, xây dựng điển hình tiên tiến trong phụ nữ đơn vị, xây dựng đội ngũ cán bộ, hội viên đạt các phẩm chất của phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang; xây dựng Người Phụ nữ Quân đội “bốn tốt” xứng danh Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới. Giai đoạn 1994 - 2018, phụ nữ trong toàn quân đã tham mưu xây dựng và duy trì hơn 300 mô hình hoạt động. Số lượng mô hình được xây dựng mới và nhân rộng từ năm 2016 đến nay tăng cao và chiếm 45,34%, gần bằng số lượng các mô hình được xây dựng và duy trì từ năm 1994 đến năm 2015. Các mô hình thi đua, điển hình tiên tiến đã phát huy cao độ tiềm năng, sức sáng tạo của tập thể phụ nữ và cán bộ, hội viên phụ nữ, mang lại hiệu quả thiết thực, nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ. Phụ nữ các đơn vị làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu có các mô hình tiêu biểu đã duy trì đảm bảo mỗi ngày gần 7.000 giờ thông tin thông suốt. Với “Bát nước thao trường”, Hội Phụ nữ Lữ đoàn 283, Quân khu 4 đã đóng góp được khoảng 36.000 - 46.000 lít nước giải khát, trên 350 tiết mục văn nghệ tại thao trường huấn luyện, trận địa trực chiến. Với mô hình “Tiếp sức mùa huấn luyện”, Hội Phụ nữ Sư đoàn BB5, Quân khu 7 đã tổ chức 2.580 buổi hoạt động, mỗi buổi tiếp nước uống cho gần 100 lượt cán bộ, chiến sĩ với tổng số tiền là 129 triệu đồng;  trong 3 năm đã tổ chức 12 đợt chỉnh sửa quân trang cho hạ sĩ quan, chiến sĩ với 12.389 quần, áo; tổ chức 105 buổi thăm, tặng quà, động viên chiến sĩ mới… Với phụ nữ các cơ quan, đơn vị làm nhiệm vụ bảo đảm kỹ thuật, hậu cần, chăm sóc sức khỏe cho bộ đội, hàng năm, các mô hình đã đảm bảo niêm cất, quản lý gần 400.000 mặt hàng vật tư kỹ thuật với trọng lượng 48.777 tấn; bảo quản, bảo dưỡng gần 800 tấn, tiếp nhận 560 tấn, cấp phát 700 tấn hàng; phục vụ gần 100.000 suất ăn cho bộ đội đảm bảo an toàn... Phụ nữ khối các đơn vị sản xuất quốc phòng, doanh nghiệp Quân đội đã xây dựng và triển khai các mô hình tiêu biểu tìm tòi cách làm hay, sáng tạo, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Hàng năm có hơn 60.000 sản phẩm có chất lượng cao được sản xuất. Trong 3 năm có 891 sáng kiến, 1.412 công trình, sản phẩm sáng tạo ra đời. Phụ nữ đảm nhiệm công tác giảng dạy, nghiên cứu tại các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu trong 3 năm đã có 1.170 giờ giảng tốt, 1.048 đề tài khoa học được hoàn thành; 15 giáo trình, 60 tài liệu dạy học được đưa vào giảng dạy; gần 300 bài báo khoa học được đăng tải; 55 đề tài, sáng kiến kinh nghiệm đạt giải các cuộc thi các cấp. Tại các bệnh viện, phát huy vai trò “lương y như từ mẫu”, những mô hình của Hội phụ nữ đã tạo được sự lan tỏa tích cực: “Bệnh nhân đến đón tiếp niềm nở, bệnh nhân ở chăm sóc tận tình, bệnh nhân về dặn dò chu đáo” (Quân khu 9); “Bệnh viện Xanh - Sạch - Đẹp” (Bệnh viện 175); “Buồng bệnh Đặng Thùy Trâm” (Quân khu 1, Quân đoàn 1, Quân chủng Phòng không – Không quân)… Phụ nữ đảm nhận nhiệm vụ công tác trên lĩnh vực báo chí, văn hóa nghệ thuật, thể dục - thể thao và công tác đối ngoại đã duy trì được các mô hình thiết thực như: “Nữ chiến sĩ tuyên truyền văn hóa giỏi” (Bộ đội Biên phòng); “Xóa giải ba, qua giải nhì, giành nhiều giải nhất”; “Phụ nữ đối ngoại giỏi, hội nhập và phát triển” (Bộ Tổng tham mưu); “Đẹp trên sân khấu, đẹp trong đời thường” (Tổng cục Chính trị)… Phụ nữ trong toàn quân đã xây dựng, thực hiện và duy trì nhiều mô hình, Cuộc vận động đạt hiệu quả tích cực, xây dựng gia đình “5 không, 3 sạch”; quyên góp và tặng gần 3.800 suất học bổng cho học sinh nghèo học giỏi; hỗ trợ 1.794 gia đình hội viên có hoàn cảnh khó khăn. Tổng kinh phí các mô hình vận động được chi cho các hoạt động này trong toàn quân là 24 tỷ 334 triệu đồng…Với mô hình hoạt động nhân đạo, từ thiện, phụ nữ Quân đội đã hỗ trợ hội viên vay không tính lãi hàng tỷ đồng; tặng quà, sổ tiết kiệm trị giá hàng trăm triệu đồng; phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng; hỗ trợ học sinh nghèo hiếu học của địa phương; xây dựng nhà “Mái ấm tình thương” cho hội viên phụ nữ khó khăn... Sau 3 năm triển khai phong trào thi đua “Phụ nữ Quân đội đoàn kết - sáng tạo, hoàn thành tốt nhiệm vụ, xây dựng gia đình hạnh phúc, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, có 100% hội viên phụ nữ đăng ký phấn đấu. Năm 2018 đã có 97,5% cán bộ, Hội viên đạt 3 tiêu chuẩn của phong trào và đạt danh hiệu Hội viên tiên tiến, trong đó 53% đạt danh hiệu Hội viên xuất sắc. Qua bình xét, phân tích chất lượng tổ chức Hội, đã có 92,5% Hội phụ nữ đạt Vững mạnh, trong đó 53,2% đạt Vững mạnh xuất sắc. Ghi nhận những kết quả đó, tháng 3/2018, nhân kỷ niệm 25 năm Ngày truyền thống, Phụ nữ Quân đội đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất; 3 năm liền tiếp tục dẫn đầu khối thi đua, được tặng thưởng Cờ thi đua xuất sắc và xuất sắc tiêu biểu trong phong trào thi đua của phụ nữ cả nước; hàng ngàn cá nhân, hàng trăm tập thể được khen thưởng ở các cấp trên mọi mặt công tác. Tại Hội nghị biểu dương, tôn vinh các mô hình thi đua xuất sắc, điển hình tiên tiến trong phụ nữ quân đội giai đoạn 2016 - 2018, 54 tập thể có mô hình thi đua xuất sắc, 20 tập thể, 61 cá nhân là điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh giai đoạn 2016 - 2018 đã được trao tặng Bằng khen của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Phương Thanh

Ngành Hải quan nỗ lực thi đua đi đầu về hiện đại hóa

TĐKT- Với nhiều nỗ lực trong cả tiến trình cải cách, hiện đại hóa, ngành Hải quan đã được Chính phủ, các bộ, ngành và cộng đồng doanh nghiệp đánh giá là cơ quan đi đầu trong khối bộ, ngành Trung ương triển khai ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), đáp ứng yêu cầu quản lý, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu (XNK). Tự động hóa nhờ VNACCS/VCIS Với vai trò là cơ quan đi đầu trong hội nhập quốc tế, ngành Hải quan luôn chủ động, quyết liệt trong đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ. Điều này xuất phát từ tư duy đột phá của lãnh đạo Chính phủ, Bộ Tài chính, đặc biệt là tập thể lãnh đạo và cán bộ công chức hải quan qua các thời kỳ nhằm xây dựng Hải quan Việt Nam hiện đại, chuyên nghiệp, hoạt động hiệu lực, hiệu quả dựa trên nền tảng ứng dụng CNTT sâu, rộng trong mọi lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ. Thủ tục Hải quan tại Sân bay Quốc tế nội bài Quan điểm cải cách, phát triển và hiện đại hóa hải quan trên nền tảng ứng dụng CNTT nhằm giải quyết một cách tốt nhất, hiệu quả nhất trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhất là hàng hóa XNK tăng mạnh qua từng năm. Đồng thời đi kèm với xu thế hội nhập cũng đặt ra những khó khăn, thách thức to lớn trong công tác giám sát, quản lý hải quan, phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại… Một trong những ứng dụng CNTT có tính chất đột phá chính là thời điểm thực hiện Hệ thống thông quan tự động VNACCS/VCIS do Chính phủ Nhật Bản viện trợ từ ngày 1/4/2014. VNACCS/VCIS đã mang lại nhiều lợi ích to lớn đối với cộng đồng DN, nhất là tạo thuận lợi trong khai báo, thông quan hàng hóa, qua đó giúp giảm thời gian, chi phí cho DN… Với cơ quan Hải quan, điều đột phá của VNACCS/VCIS được nhắc đến nhiều hơn cả là giúp Hải quan Việt Nam hoàn thành được mục tiêu xây dựng một Hệ thống CNTT tập trung. Bởi trước đây, hệ thống CNTT tập trung ở đầu mối các cục hải quan địa phương khiến công tác quản lý, việc triển khai ứng dụng CNTT một cách thống nhất trong toàn Ngành gặp không ít khó khăn. Đến nay, ngành Hải quan đã phủ sóng VNACCS/VCIS tại 100% chi cục hải quan trên phạm vi cả nước; 99,99% doanh nghiệp, 99,99% tờ khai và 99,99% kim ngạch XNK đã được thực hiện qua Hệ thống VNACCS/VCIS. Việc thực hiện thành công VNACCS/VCIS chính là nền tảng để ngành Hải quan triển khai các chương trình hiện đại hóa sau này theo mục tiêu phát triển do Chính phủ, Bộ Tài chính đề ra. Hải quan- Trung tâm kết nối Với ngành Hải quan, từ khi đặt được nền móng về tập trung dữ liệu thông qua Hệ thống VNACCS/VCIS, câu chuyện tích hợp công nghệ để cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thời gian thông quan và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hải quan tiếp tục chuyển động không ngừng. Đó là việc áp dụng mã vạch trong giám sát hải quan; phối hợp thu nộp thuế với ngân hàng thương mại qua phương thức điện tử 24/7; thực hiện e-Manifets… và gần đây nhất là áp dụng Hệ thống quản lý hải quan tự động. Điều này cho thấy mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng CNTT và tích hợp các hệ thống với nhau theo tinh thần của Cách mạng công nghiệp 4.0 trong ngành Hải quan đang được triển khai quyết liệt, hiệu quả. Đơn cử như trường hợp của Hệ thống quản lý hải quan tự động tại cảng biển (được triển khai chính thức tại Hải Phòng từ ngày 1/12/2017 với tên gọi VASSCM). Đây được xem là đột phá lớn nhất về ứng dụng CNTT của ngành Hải quan kể từ sau khi thực hiện VNACCS/VCIS. Với Hệ thống quản lý hải quan tự động, cơ quan Hải quan kết nối tự động với Cơ chế một cửa quốc gia (NSW) để khai thác giúp sử dụng hiệu quả nguồn thông tin e-Manifets; Hệ thống VNACCS/VCIS, E-Customs (V5) phục vụ công tác kiểm tra, giám sát. Đồng thời với DN kinh doanh cảng, Hệ thống giúp cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời về tình trạng cấp phép thông quan (từ cơ quan Hải quan) với từng lô hàng, từng container, để giảm thiểu rủi ro trong thực hiện thủ tục giao, nhận hàng so với thực hiện bằng chứng từ giấy; có thể thực hiện chế độ quản lý, thống kê, lưu giữ chứng từ giao nhận hàng hóa đảm bảo nhanh chóng, chính xác, khoa học và minh bạch; nâng cao uy tín, tăng khả năng tiếp nhận, khai thác hàng hóa, nâng cao hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh. Nói đến câu chuyện tích hợp, không thể không nhắc vai trò chủ công của ngành Hải quan trong thực hiện NSW, Cơ chế một cửa ASEAN (ASW). Với vai trò Cơ quan Thường trực của Ủy ban chỉ đạo quốc gia, Tổng cục Hải quan đã nỗ lực phối hợp với các bộ, ngành liên quan để Việt Nam là một trong 4 quốc gia đầu tiên trong khu vực kết nối ASW cùng với Indonesia, Malaysia và Thái Lan vào tháng 9/2015. Đặc biệt, Cổng thông tin NSW đã kết nối được 11 bộ, ngành. Tính đến ngày 15/11/2018, đã có 130 thủ tục được đưa lên NSW, với tổng số hồ sơ hành chính đã được xử lý trên 1,66 triệu bộ hồ sơ và trên 25.300 doanh nghiệp tham gia. Với ASW, Việt Nam đang tiếp tục triển khai trao đổi chính thức Giấy chức nhận xuất xứ mẫu D (C/O form D) với 4 nước: Indonesia, Malaysia, Singapore và Thái Lan; đồng thời, tham gia trao đổi thử nghiệm C/O form D với 3 nước (Brunei, Campuchia, Phillipines). Tính đến ngày 15/11/2018, tổng số C/O Việt Nam nhận từ 4 nước ASEAN là: 50.435 C/O; tổng số C/O Việt Nam gửi sang các nước là 85.831 C/O. Thời gian tới, theo kế hoạch sẽ triển khai kết nối kỹ thuật thử nghiệm trao đổi thông tin tờ khai hải quan ASEAN, chứng nhận kiểm dịch thực vật (ePhyto), chứng nhận kiểm dịch động vật (e-AH). Qua đó, giúp cho việc thực hiện thủ tục của DN, công tác quản lý của các bộ, ngành thuận lợi, hiệu quả hơn. Việc thực hiện ASW đã giúp “xóa nhòa ranh giới” về mặt địa lý đơn thuần giữa các quốc gia, trong khi thực hiện NSW giúp từng bước bỏ đi quan niệm “cát cứ” trong công tác quản lý của mỗi bộ, ngành để cùng chung tay vì một mục tiêu, một chủ trương chung là xây dựng Chính phủ kiến tạo, đồng hành vì sự phát triển của người dân, doanh nghiệp. Những năm tới, mục tiêu quan trọng, cụ thể được Chính phủ, Bộ Tài chính đặt ra đối với ngành Hải quan là tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong thực hiện thủ tục hải quan, hướng đến môi trường hải quan điện tử phi giấy tờ, được thực hiện “Mọi nơi - Mọi lúc - Mọi phương tiện”. Đồng thời đẩy mạnh việc trang bị và nâng cao hiệu quả sử dụng các trang thiết bị công nghệ hiện đại trong công tác kiểm tra, giám sát tại các địa bàn trọng điểm. Thời gian tới, trước bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, Hải quan Việt Nam sẽ đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ internet kết nối vạn vật (IoT), phân tích dữ liệu lớn (Big data), trí tuệ nhân tạo (AI), chuỗi kết nối (Blockchain)… trong quản lý nhà nước về hải quan. Hồng Thiết

Trang