Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8
BTĐKT - Ngày 4/12, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến từ điểm cầu trung ương tại Phòng họp Diên Hồng (Nhà Quốc hội) kết nối với các điểm cầu của Tỉnh ủy,Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc trung ương và đường truyền mở rộng đến cơ sở. Dự và chỉ đạo hội nghị có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng; Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai. Cùng dự hội nghị có các Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII cùng các cán bộ chủ chốt các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong toàn hệ thống chính trị và đông đảo cán bộ, đảng viên. Hội nghị tại điểm cầu Đảng ủy Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương Hội nghị được kết nối tới 16.242 điểm cầu các ban, bộ, ngành, đoàn thể, đơn vị ở Trung ương và các địa phương trên toàn quốc; có hơn 1.441.200 cán bộ, đảng viên tham dự nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết. Dự hội nghị tại điểm cầu Đảng ủy Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương có các đồng chí: Phạm Huy Giang, Bí thư Đảng ủy, Trưởng ban; Phạm Đức Toàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Trưởng ban; Phan Văn Hùng, Thường vụ Đảng ủy, Phó Trưởng ban; các Ủy viên BCH Đảng ủy Ban, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Ban, Bí thư, Phó Bí thư, Chi ủy viên các Chi bộ trực thuộc Đảng bộ Ban; Trưởng các đoàn thể thuộc Ban và toàn thể đảng viên thuộc Đảng bộ Ban. Các đại biểu dự hội nghị tại điểm cầu Đảng ủy Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương Hội nghị diễn ra trong 1,5 ngày (trong đó, 1 ngày nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết; 0,5 ngày dành cho các tỉnh, thành ủy và Đảng ủy trực thuộc Trung ương triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị quyết). Theo chương trình hội nghị, các đại biểu nghe Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng truyền đạt chuyên đề: Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính truyền đạt chuyên đề: Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng truyền đạt chuyên đề: Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa truyền đạt chuyên đề: Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới. Nội dung các chuyên đề tập trung vào những vấn đề cốt lõi, những điểm mới của các nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII. Trên cơ sở đó, các cấp ủy, tổ chức đảng, các ban, bộ, ngành, địa phương tiếp tục quán triệt, tuyên truyền sâu rộng các nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII ở địa phương, cơ quan, đơn vị; xây dựng kế hoạch, chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII cụ thể, thiết thực và hiệu quả. Phát biểu tại hội nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai đánh giá cao các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị đã tham gia nghiêm túc hội nghị. Đây chỉ là bước khởi đầu để Nghị quyết đi vào cuộc sống, đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên phải tiếp tục nghiên cứu, học tập toàn diện Nghị quyết, nêu cao trách nhiệm, quyết tâm, nỗ lực để đảm bảo các mục tiêu đạt được kết quả thực chất. Từng địa phương, đơn vị, trên cơ sở đó, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân, tạo đồng thuận cao trong thực hiện các Nghị quyết của Đảng. Sau hội nghị, các cấp ủy, tổ chức đảng cần rút kinh nghiệm, thường xuyên kiểm tra, giám sát đôn đốc để việc thực hiện Nghị quyết đạt được hiệu quả cao, không để xảy ra tình trạng “đầu voi, đuôi chuột”. Phải làm sao để Nghị quyết đi vào cuộc sống một cách thực chất nhất. Đồng chí đề nghị các địa phương, đơn vị hoàn thành tổng kết năm trước ngày 10/1/2024, tập trung chăm lo chu đáo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, nhất là người có công với cách mạng, gia đình chính sách, người có hoàn cảnh khó khăn, hộ nghèo, đồng bào các vùng thiên tai, dịch bệnh, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, công nhân, lao động, người bị mất việc làm, để bảo đảm mọi nhà đều có điều kiện vui xuân, đón năm mới... Phương ThanhChính trị - Xã hội
Không ngừng mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp
BTĐKT - Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 15 về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020, BHXH và BHTN đã không ngừng được mở rộng diện bao phủ. Cụ thể, thứ nhất, chính sách ưu đãi, tôn vinh người có công với cách mạng được đặc biệt quan tâm và thực hiện tốt. Đối tượng người có công với cách mạng được mở rộng với chế độ và chính sách ưu đãi phù hợp. Hiện có trên 1,2 triệu người có công và thân nhân đang hưởng chế độ ưu đãi hằng tháng; 98,6% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình trên địa bàn. Diện bao phủ Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm thất nghiệp không ngừng được mở rộng Thứ hai, việc bảo đảm an sinh xã hội chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh của công dân. Số người hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên tăng hằng năm và đạt 3,3 triệu người năm 2022. Trong 3 năm phòng, chống dịch COVID-19, đã hỗ trợ với số tiền trên 120.000 tỷ đồng và trên 200.000 tấn gạo hỗ trợ cho trên 68 triệu lượt người dân, người lao động gặp khó khăn. Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, đồng thời huy động, phát huy vai trò quan trọng của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, thị trường và ý chí tự lực, tự cường của người dân. Đã dành nguồn lực khoảng 20% tổng chi ngân sách nhà nước hằng năm cho chính sách xã hội. Thể chế về thị trường lao động từng bước được hoàn thiện; cơ bản bảo đảm cung cầu lao động. Tỉ lệ thất nghiệp ổn định dưới 3%, thất nghiệp thành thị dưới 4%. Thứ ba, công tác giảm nghèo đạt kết quả nổi bật; đời sống của người dân ngày càng được cải thiện. Tỉ lệ hộ nghèo từ gần 60% vào năm 1986 giảm xuống còn dưới 3% vào năm 2022. GDP bình quân đầu người tăng từ 86 USD năm 1986 lên 4.110 USD năm 2022. Việt Nam về đích trước thời hạn theo mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) và Phát triển bền vững (SDG) của Liên Hợp Quốc; là điểm sáng trong toàn cầu, được nhân dân cả nước và cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Thứ tư, diện bao phủ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp không ngừng được mở rộng. Năm 2022, tỉ lệ tham gia BHXH đạt 38,08% và bảo hiểm thất nghiệp đạt 31,18% lực lượng lao động trong độ tuổi; tỉ lệ tham gia BHXH tự nguyện ngày càng tăng (đến nay đạt 1,46 triệu người). Thứ năm, người dân tiếp cận ngày càng tốt hơn các dịch vụ xã hội cơ bản. Về giáo dục, trẻ em đi học đúng tuổi cấp tiểu học đạt 99% từ năm 2015, cấp trung học cơ sở đạt trên 95% từ năm 2020. Năm 2022, 92% người dân tham gia BHYT; 90% trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ... Về nhà ở, đến năm 2020, đã hỗ trợ chỗ ở cho 648.000 hộ nghèo nông thôn, 323.000 căn nhà cho người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn. Đến năm 2021, 90% người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh. Về tiếp cận thông tin, năm 2016, 100% xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo được phủ sóng phát thanh và truyền hình mặt đất; đến năm 2020, 100% các xã có đài truyền thanh... Đáng chú ý, Nghị quyết số 42-NQ/TW mở rộng phạm vi ra toàn bộ các nhóm chính sách xã hội cho tất cả các đối tượng trên nguyên tắc bảo đảm tính toàn dân, toàn diện, bao gồm các chính sách về ưu đãi người có công với cách mạng; lao động, việc làm, phát triển nguồn nhân lực; đảm bảo an sinh xã hội (trụ cột là bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp xã hội, giảm nghèo); nâng cao phúc lợi xã hội và đảm bảo tiếp cận dịch vụ xã hội (về y tế, giáo dục, nhà ở, văn hóa, nước sạch, vệ sinh môi trường, thông tin); nhóm yếu thế, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người có hoàn cảnh khó khăn ở vùng sâu, vùng xa. Về mục tiêu tổng quát đến năm 2030, Nghị quyết số 42-NQ/TW xác định rõ việc xây dựng hệ thống chính sách xã hội theo hướng bền vững, tiến bộ và công bằng; hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững; phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả, hội nhập quốc tế. Nghị quyết đưa ra 37 chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030. Xác định tầm nhìn đến năm 2045, hệ thống chính sách xã hội phát triển toàn diện, bền vững, tiến bộ và công bằng, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho nhân dân; nằm trong nhóm quốc gia có chỉ số phát triển con người (HDI) cao trên thế giới. Nghị quyết số 42-NQ/TW đưa ra hệ thống 9 nhóm giải pháp đồng bộ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực về chính sách xã hội (nâng cao nhận thức, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; hệ thống an sinh xã hội; nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân; cung cấp dịch vụ xã hội; hợp tác quốc tế; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng). Trong khi đó, Nghị quyết số 15-NQ/TW tập trung vào 3 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu (về chính sách ưu đãi người có công, bảo đảm an sinh xã hội và giải pháp thực hiện). PVBTĐKT - Năm 2023, ngành Y tế đã đạt và vượt 3/3 chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu được Quốc hội giao và 7/9 chỉ tiêu cụ thể về y tế. Hoạt động KCB thông thường cơ bản đáp ứng nhu cầu. KCB từ xa, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới tiếp tục được tăng cường. Đã kết nối liên thông giữa 63 Sở Y tế, 63 cơ quan BHXH, 99,5% cơ sở KCB trên toàn quốc. Bên cạnh đó, chất lượng dịch vụ y tế có mặt được nâng lên. Công tác hoàn thiện thể chế được chú trọng, đẩy mạnh, làm cơ sở, nền tảng quan trọng giải quyết những vướng mắc, bất cập của ngành Y tế cả trước mắt và lâu dài.
Tuy nhiên, toàn ngành Y tế cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách y tế. Trong đó, tập trung xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn Luật KCB (sửa đổi); hoàn thiện trình Quốc hội sửa đổi Luật Dược, Luật BHYT; đổi mới cơ chế tài chính y tế; thực hiện lộ trình tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế; hoàn thành xây dựng cơ chế tổ chức cung ứng, dự trữ, mua sắm đặc thù đối với các loại thuốc hiếm, thuốc điều trị bệnh hiếm.
Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái trao Cờ thi đua của Chính phủ cho 3 đơn vị của Bộ Y tế
Đặc biệt, tập trung giải quyết tình trạng thiếu thuốc, vật tư, thiết bị y tế; đáp ứng đầy đủ, kịp thời vắc-xin; tập trung kiểm soát hiệu quả dịch bệnh; nâng cao chất lượng dịch vụ y tế ở các tuyến, đẩy mạnh triển khai đề án Bệnh viện vệ tinh, bác sĩ gia đình. Đồng thời, mở rộng độ bao phủ BHYT để tiến tới BHYT toàn dân; nghiên cứu điều chỉnh mức đóng BHYT phù hợp với lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ y tế, nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân và trình độ, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tiếp tục kiện toàn, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của các đơn vị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đầu tư, nâng cao năng lực hệ thống y tế, nhất là y tế cơ sở, y tế dự phòng. Nâng cao chất lượng nguồn lực y tế gắn với đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Đẩy mạnh thực hiện Chiến lược quốc gia phát triển ngành Dược Việt Nam. Nghiên cứu xây dựng khung chính sách tổng thể về dân số. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và lợi ích nhóm.
Hơn hết, trong năm 2024, Bộ Y tế phải xử lý triệt để các vướng mắc, tồn tại, hoàn thiện việc mua sắm thiết bị, chuẩn bị nguồn nhân lực để đưa vào sử dụng 2 Bệnh viện Việt Đức và Bạch Mai cơ sở 2 ở Hà Nam. Đồng thời, xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi phù hợp cho các cơ sở KCB tiếp cận các nguồn vốn, bao gồm vốn vay ưu đãi của Chính phủ và vay thương mại, để đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị…
Về công tác chỉ đạo, điều hành, Bộ Y tế đã tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện quyết liệt, với nhiều giải pháp về cơ chế, chính sách, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, giảm bớt thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin; động viên, khuyến khích gắn tăng cường kỷ luật, kỷ cương công vụ, trách nhiệm người đứng đầu đơn vị, tăng cường lắng nghe thực tiễn, hướng dẫn, hỗ trợ tháo gỡ dần từng bước các khó khăn, vướng mắc trong phòng, chống dịch bệnh, chế độ chính sách, giải quyết tình trạng thiếu thuốc, trang thiết bị y tế, vắc-xin, cơ chế tài chính, BHYT.
Trong công tác xây dựng thể chế, ngành Y tế tiếp tục chú trọng và tập trung hoàn thiện nhằm tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động KCB, chăm sóc sức khỏe nhân dân, tháo gỡ khó khăn cho các cơ sở KCB và địa phương. Trong công tác phòng, chống dịch bệnh, dịch Covid-19 và các dịch bệnh truyền nhiễm khác tiếp tục được kiểm soát tốt; ngành tập trung cùng chính quyền địa phương bảo đảm công tác tiêm chủng vắc-xin phòng bệnh, không để xảy ra dịch chồng dịch; tập trung phòng chống các dịch bệnh truyền nhiễm lưu hành (sốt xuất huyết, tay chân miệng…), các dịch bệnh nguy hiểm, mới nổi (đậu mùa khỉ…).
Hoạt động KCB thông thường phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch Covid-19. Các dịch vụ y tế ngày một đa dạng, chất lượng được nâng lên rõ rệt. Nhiều cơ sở KCB được đầu tư xây dựng hiện đại và đồng bộ. Kỹ thuật y học tiên tiến được chuyển giao xuống tuyến dưới; công tác quản lý chất lượng bệnh viện, thái độ phục vụ của cán bộ, nhân viên y tế tiếp tục có bước chuyển biến.
Chất lượng công tác quản trị, điều hành và phục vụ người bệnh tại một số cơ sở KCB còn chưa bảo đảm yêu cầu đặt ra, thậm chí có nơi còn có vi phạm; công nghiệp dược, công nghiệp sản xuất trang thiết bị y tế trong nước còn hạn chế; việc chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin chưa bảo đảm được yêu cầu; công tác đào tạo nhân lực ngành Y tế còn những vấn đề về việc bảo đảm chất lượng; một số dự án vẫn còn kéo dài… Trong khi đó, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho năm 2024 cũng như những năm tới đối với ngành Y tế là vẫn rất nặng nề.
Vì vậy, ngành Y tế nêu cao tinh thần đoàn kết, càng khó khăn càng phải thống nhất, đoàn kết, nêu cao y đức, tinh thần quyết tâm trong thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của ngành thực hiện ngày càng tốt hơn nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân trong thời gian tới.
Gia Linh
BTĐKT - Thời gian qua BHXH tỉnh Cần Thơ đã tích cực đẩy mạnh công tác BHYT trong tình hình mới, góp phần chăm lo ổn định cuộc sống, bảo vệ sức khỏe nhân dân; chủ động phối hợp tổ chức tuyên truyền, đối thoại trực tiếp đến đảng viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân về chính sách BHYT.
Kết quả, số người tham gia BHYT trên địa bàn thành phố tăng lên theo từng năm đạt và vượt chỉ tiêu giao, cụ thể: Năm 2009 có 488.925 người tham gia BHYT, đạt tỷ lệ bao phủ là 41,10% dân số; năm 2015 có 870.307 người tham gia BHYT, đạt tỷ lệ bao phủ là 70,03% dân số; tăng 381.382 người, tăng 78,04% so với năm 2009; năm 2023 có 1.157.800 người tham gia BHYT, đạt tỷ lệ bao phủ là 92,45 % dân số; tăng 668.875 người, tăng 136% so với năm 2009; Hệ thống thông tin giám định BHYT (giám định điện tử) được liên thông dữ liệu với 100% cơ sở khám chữa bệnh (KCB) trên địa bàn có ký hợp đồng với cơ quan BHXH, tạo thuận lợi cho công tác giám định BHYT chủ động, kịp thời thanh toán và tạm ứng với các cơ sở KCB BHYT; có 119/119 cơ sở KCB triển khai KCB bằng căn cước công dân (CCCD) gắn chip, đạt 100% với tổng số 304.696 lượt tra cứu thông tin thẻ BHYT bằng CCCD gắn chíp phục vụ làm thủ tục KCB BHYT; đã đồng bộ dữ liệu cho 1.083.592/1.157.800 người tham gia BHYT với cơ sở dữ liệu Quốc gia về dân cư, đạt tỷ lệ 94,4% số người tham gia BHYT.
Trao Bằng khen của Chủ tịch UBND thành phố tặng các tập thể, cá nhân đạt thành tích tiêu biểu tích cực đẩy mạnh công tác BHYT trong tình hình mới
Qua 15 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 38, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội thành phố đã quán triệt sâu sắc các nội dung của Chỉ thị 38 và các văn bản liên quan đến chính sách BHYT, từ đó, đã tạo bước chuyển biến khá rõ nét về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên, công chức trong triển khai, tổ chức thực hiện chính sách BHYT tại địa phương, cơ quan, đơn vị. Nhiều chế độ chính sách về BHYT đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng có lợi cho người dân, thủ tục hồ sơ tham gia và giải quyết chế độ BHYT đã được cắt giảm đáng kể, đã thu hút đông đảo người dân tham gia. Công tác tuyên truyền, phổ biến về ý nghĩa, tầm quan trọng của chính sách BHYT, về quyền lợi và trách nhiệm của người tham gia BHYT được chú trọng thực hiện bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, nhằm phát triển đối tượng tham gia BHYT. Công tác phối hợp giữa BHXH thành phố với các địa phương, sở, ngành có liên quan trong thực hiện chính sách BHYT được chặt chẽ, kịp thời. Công tác quản lý nhà nước về BHYT và quản lý quỹ BHYT được quan tâm thực hiện tốt.
Tiếp tục bám sát các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến BHYT và công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, nhất là các nội dung của Chỉ thị số 38, Nghị quyết số 20 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 12 về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới và các văn bản chỉ đạo, kế hoạch, chương trình thực hiện của Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác BHYT, đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện tốt mục tiêu chăm sóc sức khỏe nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
Chú trọng đổi mới tư duy, nghiên cứu các hình thức tuyên truyền, vận động, phổ biến, đảm bảo thường xuyên, liên tục, thiết thực, hiệu quả, phù hợp với từng nhóm đối tượng cụ thể, nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức của các tầng lớp nhân dân về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của chính sách BHYT trong hệ thống an sinh xã hội và quyền lợi của người tham gia.
Đồng thời, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, sự phối hợp và tham gia của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là trách nhiệm của UBND các cấp trong thực hiện các chính sách, pháp luật, các mục tiêu, kế hoạch về BHYT. Đẩy mạnh thực hiện kế hoạch và lộ trình thực hiện chính sách BHYT toàn dân theo quy định; tiếp tục đưa chỉ tiêu phát triển BHYT vào nghị quyết của các cấp ủy và chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội hàng năm tại địa phương.
Phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, địa phương trong công tác quản lý Nhà nước về BHYT; quản lý chặt chẽ đối tượng tham gia BHYT từ cơ sở; củng cố và tăng cường quản lý quỹ BHYT, bảo đảm thu - chi đúng quy định.
Nâng cao chất lượng KCB, nhằm đảm bảo quyền lợi cho người có thẻ BHYT bằng việc tiếp tục củng cố và hoàn thiện hệ thống các cơ sở KCB từ tuyến xã đến tuyến tỉnh, đảm bảo về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ KCB BHYT ban đầu.
Đặc biệt, quan tâm đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ y tế, nâng cao trình độ chuyên môn, đáp ứng nhu cầu KCB cho người dân; tăng cường chuyển giao, áp dụng kỹ thuật mới trong KCB, tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận với kỹ thuật mới, hiện đại.
Với thành quả sau 15 năm thực hiện Chỉ thị số 38, 12 tập thể và 17 cá nhân đã được Chủ tịch UBND thành phố tặng Bằng khen theo Quyết định số 583/QĐ-UBND ngày 19/3/2024. Có thể nói, sau 15 năm thực hiện Chỉ thị số 38, nhận thức của các cấp, các ngành, địa phương và toàn xã hội về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của BHYT được nâng lên; các hoạt động, chương trình, kế hoạch về BHYT được triển khai đồng bộ, quyết liệt, với nhiều nội dung, hình thức tuyên truyền đổi mới, đa dạng, có trọng tâm, trọng điểm; công tác quản lý Nhà nước về BHYT từng bước đi vào ổn định, nền nếp; quyền lợi về BHYT của người tham gia ngày càng mở rộng và được quan tâm nhiều hơn, góp phần chăm sóc sức khỏe nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Gia Linh
Đê xuất tăng thêm quyền lợi cho lao động nữ để thu hút người tham gia BHXH tự nguyện
BTĐKT - TS Bùi Sỹ Lợi, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề Xã hội của Quốc hội (nay là Ủy ban Xã hội), đề nghị nâng mức trợ cấp thai sản khi sinh con đối với trường hợp BHXH tự nguyện. TS Bùi Sỹ Lợi cho rằng, mức hưởng 2 triệu đồng cho một con khi sinh, bao gồm cả trường hợp con bị chết hoặc chết lưu trong dự thảo, là quá thấp, đề nghị nâng mức hỗ trợ này. Đề xuất tăng thêm quyền lợi cho lao động nữ Bên cạnh đó, theo TS Bùi Sỹ Lợi, với chế độ thai sản, ngoài hỗ trợ về tiền mặt, cơ quan soạn thảo cần cân nhắc bổ sung chế độ chăm sóc sức khỏe, khám thai định kỳ. “Hiện nay, chế độ BHXH tự nguyện chưa thực sự thu hút, bổ sung chế độ thai sản phù hợp cũng là điều kiện cần thiết để thu hút lao động trong độ tuổi tham gia”, TS Bùi Sỹ Lợi nói. TS Bùi Sỹ Lợi đề xuất mức hưởng chế độ thai sản tối thiểu cho người lao động tham gia BHXH tự nguyện (bao gồm cả lao động nữ và lao động nam) là 1,5 triệu đồng/tháng (mức chuẩn nghèo nông thôn) trong 14 tuần (3,5 tháng) và cho rằng, mức này là phù hợp; đồng thời vẫn giữ chính sách hỗ trợ cho phụ nữ thuộc hộ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số. Còn theo đại diện Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) TP Hải Phòng, hiện nay, dự thảo Luật BHXH đã bổ sung chế độ thai sản đối với người tham gia BHXH tự nguyện theo mức là 2 triệu đồng cho 1 lần sinh, bao gồm cả trường hợp con bị chết hoặc chết lưu. Tuy nhiên, đại diện LĐLĐ TP Hải Phòng đề nghị cần chia thành các mức như: Sinh con thường là 2 triệu đồng; sinh con phải phẫu thuật là 3 triệu đồng; trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ 2 trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được hỗ trợ thêm 1 triệu đồng. Cùng chung quan điểm, bà Nguyễn Thị Thúy Hà, Phó Chủ tịch Thường trực Liên đoàn Lao động tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị nâng mức hưởng từ 2 triệu đồng cho một con khi sinh, bao gồm cả trường hợp con bị chết hoặc chết lưu lên mức 3,6 triệu đồng để bằng mức hưởng của đối tượng đóng BHXH bắt buộc và điều chỉnh tăng lên theo lương cơ sở vào từng thời điểm. “Thực tế, lao động nữ dưới 30 tuổi tham gia BHXH tự nguyện là rất ít; chỉ có lao động nữ trên 30 tuổi khi không tham gia BHXH bắt buộc ở khu vực chính thức, hoặc khi có điều kiện kinh tế dư dả thì họ mới tham gia BHXH tự nguyện. Những đối tượng trên 30 tuổi nghỉ thai sản là rất ít. Tôi mong muốn BHXH tự nguyện có thêm chế độ ốm đau để có đông người lao động được hưởng chế độ này”, bà Hà nêu quan điểm. Vì thế, để đảm bảo quyền lợi tốt hơn cho người lao động và phù hợp với xu hướng chung của nhiều quốc gia, dự thảo cần quy định mức trả trợ cấp thai sản tính trên mức tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ thai sản. Song LinhBTĐKT - Bảo hiểm Xã hội Việt Nam cho biết: Hiện số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện khoảng 1,83 triệu người, tăng 305 lần so với năm 2008 là năm đầu tiên thực hiện chính sách này.
Theo Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, thực hiện mục tiêu xuyên suốt phát triển bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo hướng bao phủ toàn dân, những năm qua, số người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tiếp tục tăng qua các năm và đã tập trung vào nhóm yếu thế.
Đặc biệt, tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế phát triển bền vững, vượt mục tiêu được Đảng và Chính phủ giao.
Người tham gia và thụ hưởng các chính sách bảo hiểm xã hội ngày càng tăng
Cụ thể, về bảo hiểm xã hội, hiện khoảng 18,26 triệu người tham gia, đạt 39,25% lực lượng lao động trong độ tuổi, trong đó, số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện khoảng 1,83 triệu người, đạt 3,92% lực lượng lao động trong độ tuổi, tăng 305 lần so với năm 2008 – năm đầu tiên thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện (tăng từ 6.000 người lên 1,83 triệu người).
Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp khoảng 14,7 triệu người, đạt gần 31,6% lực lượng lao động trong độ tuổi, tăng gần 2,5 lần so với năm 2009 – năm đầu tiên thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp (tăng từ 6 triệu người lên 14,7 triệu người).
Với bảo hiểm y tế, hiện có khoảng hơn 93,3 triệu người tham gia, đạt 93,35% dân số, tăng 13,1 lần so với năm 2015 (tăng từ 7,1 triệu người lên 93,3 triệu người), tiệm cận mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân.
Diện bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tăng, góp phần mở rộng hiệu quả lưới an sinh xã hội tới mọi người dân, người lao động.
Cùng với việc mở rộng đối tượng, quyền lợi của người tham gia, thụ hưởng chính sách ngày càng tăng.
Công tác giải quyết, chi trả chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện kịp thời, đúng quy định; đặc biệt chuyển đổi hiệu quả phương thức quản lý từ thủ công sang hiện đại, đảm bảo nguyên tắc đóng - hưởng.
Hiện, tổng số người đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng hơn 3,3 triệu người. Bên cạnh đó, từ năm 2003 đến 2023, toàn ngành đã phối hợp với các cơ sở y tế bảo đảm quyền lợi khám chữa bệnh bảo hiểm y tế cho trên 2.542,8 triệu lượt người; cùng tháo gỡ khó khăn, giải quyết tình trạng thiếu thuốc, vật tư y tế, kịp thời thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở khám chữa bệnh phục vụ người bệnh bảo hiểm y tế.
Song Linh
BTĐKT- Thời gian qua, BHXH tỉnh Thanh Hóa đã đồng lòng, phấn đấu hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao và toàn diện các chỉ tiêu.
Theo BHXH tỉnh Thanh Hóa, tính đến hết ngày 31/10/2023, tổng số người tham gia BHXH bắt buộc trên địa bàn tỉnh là 403.276 người, đạt 92,31% kế hoạch. Tỷ lệ tham gia BHXH so với lực lượng lao động bằng 28,09%.
Số người tham gia BHXH tự nguyện là 79.538 người, đạt 81,84% kế hoạch. Số người tham gia BHTN là 377.696 người, đạt 91,91% kế hoạch. Tỷ lệ tham gia BHTN so với lực lượng lao động bằng 21,97%.
Số người tham gia BHYT 3.215.509 người, đạt 94% kế hoạch, tỷ lệ bao phủ BHYT bằng 85,99% dân số (chưa tính các nhóm tham gia BHYT ở ngoài tỉnh, ngoài nước và trong lực lượng vũ trang).
BHXH tỉnh Thanh Hóa đã tổ chức thực hiện tốt các chế độ, chính sách, giải quyết đúng, đủ, kịp thời các chế độ BHXH, đảm bảo quyền lợi người lao động. Thực hiện tiếp nhận và thụ lý giải quyết cho 232.019 lượt người hưởng các chế độ BHXH, BHTN, giảm 35,5% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện giao dịch điện tử trong tiếp nhận và giải quyết chế độ ốm đau, thai sản dưỡng sức phục hồi sức khỏe, tỷ lệ giao dịch bình quân toàn tỉnh đạt 89,7%.
Tuy nhiên vẫn còn một số khó khăn, đó là tốc độ gia tăng người tham gia BHXH, BHTN còn chậm; tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH thấp.
BHXH tỉnh Thanh Hóa phối hợp với địa phương tổ chức Hội nghị truyền thông, tư vấn chính sách BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình.
Số người tham gia BHXH tự nguyện mặc dù có tăng, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng. Tỷ lệ người tham gia BHXH, BHYT trên địa bàn tỉnh còn thấp, thiếu tính bền vững, nhất là đối với các huyện miền núi còn phụ thuộc nhiều vào các chế độ chính sách hỗ trợ của Nhà nước nên gặp không ít khó khăn trong hoàn thành các chỉ tiêu phát triển người tham gia BHXH, BHYT.
BHXH tỉnh đã rất nỗ lực trong công tác tham mưu, phối hợp, tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh.
Tuy nhiên, để hoàn thành các nhiệm vụ được giao, BHXH tỉnh Thanh Hóa cần tiếp tục bám sát kế hoạch giao chỉ tiêu thu, phát triển người tham gia BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Việt Nam; thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo của lãnh đạo ngành, triển khai linh hoạt, phù hợp, đồng bộ các nhiệm vụ cụ thể, giải pháp theo kịch bản chi tiết đã được xây dựng của địa phương, các quy trình, hướng dẫn của BHXH Việt Nam để tổ chức thực hiện hiệu quả công tác thu và phát triển người tham gia BHXH, BHTN, BHYT.
Trong tháng cuối năm, BHXH tỉnh tiếp tục tập trung triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp nhằm kiểm soát chi phí khám chữa bệnh BHYT, quản lý, sử dụng hiệu quả dự toán chi khám chữa bệnh BHYT được giao; tập trung rà soát, giám định chặt chẽ điều kiện, tỷ lệ thanh toán thuốc, vật tư y tế theo đúng quy định.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, đặc biệt là thanh tra, kiểm tra đột xuất đối với các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động chậm đóng, trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN; kịp thời xử lý và kiến nghị xử lý các vi phạm trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN, đảm bảo quyền lợi người lao động, kịp thời ngăn chặn những hành vi lạm dụng, trục lợi quỹ BHXH, BHYT.
Bên cạnh đó, BHXH tỉnh cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý, chuyên môn nghiệp vụ; tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, đồng bộ, hiệu quả, quyết liệt, cụ thể hóa các nhóm nhiệm vụ, giải pháp theo chỉ đạo của lãnh đạo ngành tại các Thông báo kết luận về công tác chuyển đổi số, thực hiện Đề án 06 của ngành, đảm bảo tiến độ, chất lượng; kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo ngành giải quyết những khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong quá trình tổ chức thực hiện.
Phát huy vai trò, hiệu quả công tác truyền thông, đa dạng hình thức tuyên truyền, đảm bảo linh hoạt, phù hợp với đặc thù địa phương, nâng cao chất lượng công tác truyền thông chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT và mở rộng độ bao phủ BHXH, BHTN, BHYT. Chủ động xử lý, giải quyết công việc, nhiệm vụ theo đúng thẩm quyền, phạm vi, trách nhiệm được giao, đảm bảo phân công cán bộ giải quyết “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ kết quả”.
Gia Linh
Cần chính sách toàn diện, đồng bộ cho người tham gia bảo hiểm
BTĐKT - Theo số liệu của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, đến cuối năm 2023, cả nước có hơn 18,26 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH), đạt 39,25%, trong đó có hơn 1,83 triệu người tham gia BHXH tự nguyện, đạt 3,92% lực lượng lao động trong độ tuổi. Mặc dù đã vượt 1,42% mục tiêu đề ra đến năm 2025 tại Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương, nhưng sau 15 năm thực hiện Luật BHXH (Luật số 71/2006/QH11, thực hiện BHXH tự nguyện từ 1/1/2008), số người tham gia BHXH tự nguyện còn rất khiêm tốn đã ảnh hưởng trực tiếp đến an sinh tuổi già của một bộ phận lớn dân cư sau này. Cần chính sách toàn diện, đồng bộ cho người tham gia bảo hiểm Đặc biệt, người lao động làm việc ở khu vực phi chính thức còn lớn, lại chưa nhiều người tham gia BHXH tự nguyện là việc cần phải tháo gỡ. Theo các chuyên gia, một trong những giải pháp có tính chất chiến lược và tổng thể quan trọng nhất là phát triển mạnh nền kinh tế thị trường để phát triển mạnh khu vực chính thức, giảm mạnh khu vực phi chính thức để lao động khu vực này chuyển sang khu vực chính thức và có quan hệ lao động để đảm bảo an sinh xã hội, BHXH cho người lao động. Các chuyên gia cũng cho rằng, dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) đề xuất bổ sung chế độ thai sản vào chính sách BHXH tự nguyện cũng là cách để tăng tỷ lệ tham gia BHXH tự nguyện. Tại dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi), cơ quan soạn thảo đề xuất thêm chế độ trợ cấp thai sản cho người tham gia BHXH tự nguyện mức 2.000.000 đồng từ ngân sách Nhà nước, bên cạnh chế độ lương hưu, tử tuất. Đánh giá chế độ này rất tốt đối với những người lao động trong độ tuổi sinh sản, nhưng GS.TS Giang Thanh Long, Giảng viên cao cấp, Khoa Kinh tế học, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, cho rằng không nên quy định “cứng” mức hưởng vì có thể dẫn đến nguy cơ có thể phải sửa đổi, điều chỉnh luật. GS.TS Giang Thanh Long đồng thời nhấn mạnh, về lâu dài, vẫn phải nghiên cứu và ban hành các chế độ BHXH ngắn hạn như: Ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp đối với nhóm người lao động phi chính thức để làm tăng tính hấp dẫn của chính sách và đảm bảo công bằng trong việc đóng góp và hưởng thụ các quyền lợi BHXH. “Qua khảo sát với lao động khu vực phi chính thức cho thấy, ngoài chế độ lâu dài là hưu trí, tử tuất thì người lao động rất mong muốn được hưởng các chế độ sát sườn: Bệnh nghề nghiệp, ốm đau, thai sản… Vì vậy gói BHXH ngắn hạn dần dần phải mở ra”, GS.TS Giang Thanh Long nêu quan điểm. Ngoài ra, để nâng cao tỷ lệ lao động phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện, GS.TS Giang Thanh Long cho rằng, đào tạo kỹ năng, nâng cao tay nghề để người lao động tham gia thị trường lao động bền vững; khuyến khích chủ sử dụng lao động ký kết hợp đồng lao động với người lao động… là một trong những động lực rất quan trọng. TS. Phạm Thị Thu Lan, Phó Viện trưởng Viện Công nhân và Công đoàn, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, nhấn mạnh, để mang lại lợi ích tối đa cho người lao động khu vực phi chính thức, cần có chính sách đồng bộ, toàn diện hơn như: Thúc đẩy chính sách xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm bền vững cho người lao động, hỗ trợ cho người lao động vay vốn phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế gia đình… Có như vậy, lao động mới có cơ hội để lao động để tham gia BHXH tự nguyện. Bên cạnh những giải pháp trên, các chuyên gia cho rằng, rất cần nâng cao nhận thức của người dân, người lao động để họ tham gia BHXH tự nguyện. Điều quan trọng là công tác tuyên truyền phải làm rõ lợi ích của chính sách. Cùng với đó, phải tạo cơ hội và điều kiện cho người lao động tiếp cận chính sách BHXH tự nguyện. Theo đó, đặc biệt quan tâm đến công tác hành chính phải làm sao tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tham gia, hỗ trợ kỹ năng về sử dụng công nghệ thông tin trên điện thoại di động thông minh. Gia LinhPhát triển hệ thống BHXH linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại
BTĐKT - Phát triển hệ thống BHXH linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, đây là một trong những nhiệm vụ, giải pháp chính tại Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 09/5/2024 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Nghị quyết nêu, việc xây dựng và ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24 tháng 11 năm 2023 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 42-NQ/TW) nhằm thống nhất trong chỉ đạo tổ chức quán triệt, triển khai quyết liệt, hiệu quả, tạo chuyển biến rõ rệt về nhận thức và hành động của các cấp, các ngành và toàn xã hội trong thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW. Cụ thể hóa mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết số 42-NQ/TW, xác định rõ nội dung, nhiệm vụ chủ yếu, các chỉ tiêu cụ thể, tiến độ hoàn thành, phân công trách nhiệm triển khai đến năm 2030 để Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Phát triển hệ thống an sinh xã hội đảm bảo quyền lợi cho người dân, người lao động Cùng với đó, làm cơ sở để các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, theo chức năng, nhiệm vụ được giao, xây dựng chương trình, kế hoạch hành động và tổ chức triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết số 42-NQ/TW. Chương trình đề ra nhiệm vụ về nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của chính sách xã hội, trong đó phân công trách nhiệm tổ chức tuyên truyền, giáo dục, vận động, quán triệt thống nhất trong nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị và toàn dân về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của chính sách xã hội trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Nâng cao năng lực, hiệu lực quản lý nhà nước về chính sách xã hội; thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm bền vững cho người lao động; nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ xã hội; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong thực hiện chính sách xã hội; phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng trong thực hiện chính sách xã hội. Đặc biệt, xây dựng hệ thống an sinh xã hội bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó: Tiếp tục cải cách, mở rộng hệ thống BHXH, tạo cơ hội tham gia và bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người lao động. Đổi mới chính sách BHXH tự nguyện; tăng cường hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho nông dân, người nghèo, người thu nhập thấp, lao động khu vực phi chính thức. Đổi mới hoạt động BHTN theo hướng chú trọng đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp, nâng cao hiệu quả tư vấn, giới thiệu việc làm cho lao động bị thất nghiệp; hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo kỹ năng, duy trì việc làm cho người lao động để chủ động phòng ngừa, giảm thiểu thất nghiệp. Tiếp tục mở rộng, nâng cao chất lượng BHYT toàn dân; đa dạng các gói dịch BHYT nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, chất lượng khám chữa bệnh và khả năng tài chính của người dân hưởng BHYT. Hoàn thiện cơ chế quản lý, đầu tư phát triển quỹ BHXH, BHYT, BHTN an toàn, hiệu quả, bền vững. Xử lý nghiêm tình trạng nợ, gian lận, trục lợi chính sách BHXH, BHYT, BHTN. Ban hành chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia. Song LinhBTĐKT - Sau 15 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 38-CT/TW của Ban Bí thư về “Đẩy mạnh công tác bảo hiểm y tế trong tình hình mới”, ngành Bảo hiểm Xã hội (BHXH) Việt Nam đã tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện đồng bộ, có hiệu quả, đạt được nhiều kết quả tích cực, trong đó, chất lượng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế (BHYT) không ngừng nâng cao.
Từ khi thực hiện Luật BHYT, hầu hết các cơ sở y tế công lập có chức năng khám chữa bệnh (KCB) đều tham gia ký kết hợp đồng KCB BHYT trực tiếp với cơ quan BHXH. Năm 2009, ngành BHXH Việt Nam ký hợp đồng với 2.176 cơ sở; đến hết ngày 31/12/2023, số cơ sở ký hợp đồng KCB BHYT là 2.897, tăng hơn năm 2009 là 809 cơ sở; trong đó số cơ sở KCB tư nhân năm 2023 là 1.106 cơ sở, tăng gấp năm lần so với năm 2009 (175 cơ sở), ngoài ra còn có gần 10 nghìn trạm y tế xã/phường/thị trấn cũng tham gia KCB BHYT thông qua hợp đồng do các bệnh viện huyện hoặc trung tâm y tế hoặc cơ sở KCB được Sở Y tế giao nhiệm vụ quản lý ký với cơ quan BHXH. Điều đó cho thấy, mạng lưới cơ sở KCB BHYT không ngừng được mở rộng, tạo thuận lợi cho người tham gia BHYT trong công tác KCB.
Người dân đăng ký khám chữa bệnh BHYT
Vì thế, số lượt người có thẻ BHYT đi KCB tăng nhanh qua từng năm, trong 15 năm đã có trên 2.120 triệu lượt người KCB BHYT, với tổng số tiền trên 993 nghìn tỷ đồng; bình quân lượt KCB BHYT mỗi năm là 141 triệu lượt/năm (tăng 59,5% so với năm 2009), với tổng chi phí KCB bình quân 66,2 nghìn tỷ đồng/năm (tăng 330% so với năm 2009). Tần suất KCB BHYT cũng tăng từ 1,77 lần/người/năm vào năm 2009 lên 1,86 lần/người/năm vào năm 2023.
Về dịch vụ kỹ thuật, thuốc, vật tư y tế trong KCB BHYT cũng không ngừng mở rộng. Hiện nay có 1.092 dịch vụ kỹ thuật (DVKT) được phân tuyến thực hiện tại tuyến xã. Trong Danh mục tương đương hiện có 862 dịch vụ được quy định giá thanh toán BHYT. Theo thống kê của BHXH Việt Nam, năm 2018 có khoảng 411 dịch vụ/862 dịch vụ có giá được thực hiện tại tuyến xã; năm 2022 là 478 dịch vụ/862 dịch vụ.
BHXH Việt Nam thường xuyên tham gia cùng với Bộ Y tế cập nhật, điều chỉnh, bổ sung Danh mục thuốc thuộc phạm vi thanh toán của quỹ BHYT đáp ứng nhu cầu điều trị, loại bỏ các bất hợp lý; hoàn thiện quy định về đấu thầu cung ứng thuốc, khắc phục nhiều bất hợp lý thời gian trước 2010, đảm bảo mua thuốc có chất lượng, giá cả hợp lý, góp phần kéo giảm giá thuốc tại Việt Nam thời gian qua, không để xảy ra tình trạng thiếu thuốc điều trị cho người bệnh.
Thực hiện Nghị quyết số 59/NQ-CP ngày 7/7/2016 của Chính phủ về việc giao BHXH Việt Nam thí điểm tổ chức đấu thầu tập trung quốc gia đối với thuốc dùng trong lĩnh vực BHYT. Kết quả triển khai thí điểm lần 1 (năm 2017) đối với 6 thuốc (5 hoạt chất) sử dụng cho năm 2018, giá thuốc giảm trung bình so với năm 2017 là 21,12%. Tổng giá trị tiết kiệm do giảm giá trúng thầu là 251 tỷ đồng (giảm 21,12%). Kết quả thí điểm lần 2, mua sắm sử dụng cho năm 2019 - 2020, đối với 26 thuốc (14 hoạt chất), giá thuốc giảm trung bình 22,4% so với giá trị trúng thầu bình quân năm 2018 tại các địa phương, tổng giá trị tiết kiệm do giảm giá trúng thầu là 2.903 tỷ đồng.
BHXH Việt Nam cũng tham gia với Bộ Y tế xây dựng, cập nhật, bổ sung Danh mục Vật tư y tế đáp ứng yêu cầu điều trị, quy định mức giá tối đa thanh toán BHYT hợp lý, đảm bảo chất lượng điều trị với giá phù hợp.
Gia Linh
Trang
- « đầu tiên
- ‹ trước
- …
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- …
- sau ›
- cuối cùng »