Chính trị - Xã hội

Dự kiến đầu tư 58,71 tỷ USD cho Dự án Đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam

TĐKT – Ngày 12/11, tại Hà Nội, Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) tổ chức họp Báo cáo cuối kỳ về nghiên cứu tiền khả thi Dự án Đường sắt tốc độ cao (ĐSTĐC) Bắc - Nam. Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Ngọc Đông chủ trì Hội nghị. Cùng dự có đại diện các bộ, ngành và 20 địa phương có Dự án đi qua; đại diện Đại sứ quán Nhật Bản và Đại sứ quán Hàn Quốc; đại diện các Cục, Vụ, Viện của Bộ GTVT cùng nhiều cơ quan liên quan khác. Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Ngọc Đông phát biểu tại Hội nghị Theo kết quả nghiên cứu tiền khả thi của Liên danh Tư vấn, Dự án ĐSTĐC trên trục Bắc - Nam có điểm đầu là ga Hà Nội, điểm cuối là ga Thủ Thiêm (TP Hồ Chí Minh). Dự án đi qua 20 tỉnh, thành phố với chiều dài toàn tuyến khoảng 1.545 km. Đây sẽ là công trình đường sắt Bắc - Nam đầu tiên có 2 làn, khổ ray 1435mm. Tàu chạy bằng điện, sử dụng công nghệ động lực đoàn tàu phân tán (EMU). Hệ thống điều khiển sử dụng công nghệ tín hiệu sóng vô tuyến.Tuyến đường sẽ có 24 ga chính và 3 ga quy hoạch tiềm năng, 5 khu depot, 42 cơ sở bảo trì hạ tầng. Dự kiến đến năm 2032 sẽ hoàn thiện và đưa vào khai thác 2 đoạn là Hà Nội - Vinh (dài 282,65 km, tổng mức đầu tư dự kiến 13,97 tỷ USD) và Nha Trang - TP Hồ Chí Minh (dài 362,15 km, tổng mức đầu tư dự kiến 13,37 tỷ USD). Đoạn còn lại (Vinh - Nha Trang dài khoảng 901 km) sẽ được tiếp tục xây dựng từ năm 2035 và phấn đấu hoàn thành đưa vào khai thác toàn tuyến vào năm 2050. Tổng mức đầu tư dự kiến cho toàn tuyến là 58,71 tỷ USD (giai đoạn một 24,71 tỷ USD, giai đoạn hai 34 tỷ USD). Nguồn vốn nhà nước cần tối thiểu 80% tổng mức đầu tư, vốn tư nhân sử dụng cho mua đầu máy, toa xe và các thiết bị khác, sau đó tư nhân sẽ khai thác hoàn vốn đã đầu tư... Dự kiến sau khi toàn tuyến hoàn thành, cần có 14.000 người để vận hành, khai thác, bảo dưỡng. Liên danh tư vấn cũng đề xuất mô hình quản lý khai thác dưới dạng thành lập một công ty đầu tư và quản lý hạ tầng đường sắt tốc độ cao và một công ty vận tải đường sắt tốc độ cao. Các công ty này sẽ đầu tư phương tiện, tổ chức vận hành khai thác và bảo dưỡng hạ tầng, phương tiện và trả phí thuê cơ sở hạ tầng cho công ty đầu tư và quản lý hạ tầng. Dưới sự điều hành của Thứ trưởng Nguyễn Ngọc Đông, các đại biểu và Liên danh Tư vấn đã dành phần lớn thời gian tại cuộc họp để thảo luận và trao đổi về các nội dụng của Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi của Dự án. Trong đó, nhiều đại biểu đánh giá Báo cáo lần này của Liên danh Tư vấn là rất đầy đủ và đồng bộ; đồng thời các đại biểu đã tập trung phân tích nhiều vào vấn đề phân kỳ đầu tư; công tác về dự báo nhu cầu vận tải; vấn đề về hiệu quả đầu tư; kinh nghiệm của các nước trên thế giới; công nghiệp phát triển đường sắt và phụ trợ; hình thức đầu tư…của Báo cáo Nghiên cứu tiền khả thi Dự án ĐSTĐC trên trục Bắc – Nam. Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Nguyễn Ngọc Đông cảm ơn ý kiến đóng góp, phản biện của các chuyên gia, các nhà khoa học; các cơ quan trong và ngoài nước; các địa phương, các bộ, ban, ngành… đã đồng hành toàn bộ quá trình thực hiện nghiên cứu tiền khả thi của Dự án. Đồng thời, nhấn mạnh, đây là dự án hết sức quan trọng và rất lớn. Để hoàn thiện nghiên cứu dự án này vẫn còn nhiều vấn đề cần thực hiện để đạt được mục tiêu vào cuối năm nay sẽ báo cáo lên các cấp có thẩm quyền. Thứ trưởng đề nghị Liên danh Tư vấn tiếp thu và giải trình các ý kiến đóng góp của các đại biểu dự họp để tiếp tục hoàn thiện Báo cáo. Cần tiếp tục tập trung làm rõ các nội dung về sự cần thiết đầu tư của Dự án; đưa ra đánh giá tác động về an toàn giao thông hiện tại và tương lai; tác động phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng miền (các địa phương có Dự án đi qua và không có Dự án đi qua); so sánh việc lựa chọn công nghệ; rà soát, tính toán lại hiệu quả kinh tế và các vấn đề về công nghiệp đường sắt… Về tiến độ nghiên cứu và thực hiện Dự án, dự kiến báo cáo nghiên cứu tiền khả thi sẽ hoàn thành trong tháng 11/2018; báo cáo các cấp có thẩm quyền từ tháng 12/2018 – 7/2019; hoàn thiện báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án để trình Chính phủ tháng 8/2019; Chính phủ trình Quốc hội cho ý kiến vào tháng 8/2019; Quốc hội thông qua tại kỳ họp tháng 10/2019. Phương Thanh

34 đơn vị, giải pháp đạt Giải thưởng Công nghệ số Việt Nam 2018

TĐKT - Chiều 12/11, tại Hà Nội, Hội Truyền thông số Việt Nam (VDCA) công bố Lễ trao giải Giải thưởng Công nghệ số Việt Nam (Vietnam Digital Awards) 2018.  Ông Nguyễn Minh Hồng, Chủ tịch Hội Truyền thông số Việt Nam phát biểu tại Lễ công bố Giải thưởng Công nghệ số Việt Nam là giải thưởng thường niên của Hội Truyền thông số Việt Nam nhằm tôn vinh, trao tặng cho đơn vị, cá nhân đã có sự xuất sắc trong việc cung cấp hoặc ứng dụng công nghệ số để cải thiện trải nghiệm của khách hàng, góp phần thúc đẩy công cuộc chuyển đổi số, phát triển kinh tế số tại Việt Nam. Năm 2018 là năm đầu tiên Giải thưởng Công nghệ số Việt Nam được tổ chức. Giải thưởng gồm 2 hạng mục. Hạng mục 1: Sản phẩm, dịch vụ công nghệ số tiêu biểu nhằm tìm kiếm, tôn vinh đơn vị, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin - truyền thông sở hữu các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số tiêu biểu, hướng đến giải quyết các vấn đề, nhu cầu thực tiễn của cuộc sống. Hạng mục 2: Ứng dụng công nghệ số xuất sắc nhằm tìm kiếm, tôn vinh đơn vị hoạt động trong nhiều lĩnh vực có quá trình chuyển đổi số mạnh mẽ từ mô hình truyền thống sang môi trường làm việc, kinh doanh dựa trên nền tảng công nghệ số. Sau 3 tháng phát động giải thưởng, Ban tổ chức nhận được 230 hồ sơ tham dự. Trong đó, tham gia hạng mục 1 có 118 hồ sơ và hạng mục 2 có 112 hồ sơ. Ban tổ chức đã lựa chọn 34 đơn vị, giải pháp để trao giải thưởng: 16 giải thưởng ở hạng mục 1; 18 giải thưởng ở hạng mục 2. Lễ tôn vinh và trao tặng Giải thưởng Công nghệ số Việt Nam 2018 sẽ được truyền hình trực tiếp trên sóng VTV2 vào 15h ngày 19/11/2018.  Phương Thanh  

9 tiêu chí xây dựng nơi làm việc không khói thuốc lá

TĐKT - Dựa trên những nghiên cứu, các nhà khoa học đã chứng minh rằng hút thuốc lá thụ động gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe. Chính vì thế, việc xây dựng môi trường không khói thuốc, bảo vệ mọi người khỏi bị phơi nhiễm với khói thuốc thụ động đang trở thành xu thế chung và được nhiều cơ quan, đơn vị triển khai nhất là các bệnh viện, trường học, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp. UBND phường Trần Nguyên Hãn (Bắc Giang) xây dựng nơi làm việc không khói thuốc lá Sau đây là 9 tiêu chí xây dựng nơi làm việc không khói thuốc lá được Quỹ Phòng, chống tác hại của thuốc lá đưa ra: 1. Có niêm yết quy định cấm hút thuốc lá tại nơi có nhiều người qua lại trong cơ quan. 2. Có treo biển cấm hút thuốc lá trong phòng họp, phòng làm việc, phòng ăn, hành lang, cầu thang và các khu vực công cộng khác trong cơ quan có quy định cấm hút thuốc lá. Biển báo cấm hút thuốc cần rõ ràng, được treo hoặc đặt ở những vị trí dễ quan sát. 3. Có kế hoạch hoạt động phòng, chống tác hại thuốc lá. 4. Có tổ chức triển khai các hoạt động phòng, chống tác hại thuốc lá. 5. Không có hiện tượng mua bán, quảng cáo các sản phẩm thuốc lá trong khuôn viên cơ quan. 6. Không có các vật dụng liên quan đến việc hút thuốc như gạt tàn, bật lửa trong phòng họp, phòng làm việc… 7. Không nhận sự hỗ trợ hoặc tài trợ trực tiếp hoặc gián tiếp của các công ty thuốc lá hay các tổ chức liên quan đến công ty thuốc lá dưới bất kỳ hình thức nào. 8. Đưa nội dung không hút thuốc lá vào tiêu chí thi đua của cán bộ, công chức 9. Không có hiện tượng hút thuốc, đầu mẩu thuốc lá tại các khu vực cấm hút thuốc của cơ quan, đơn vị. Mai Thảo

Phẫu thuật tái tạo van động mạch chủ bằng phương pháp Ozaki

TĐKT - Ngày 10/11, tại  Hà Nội, Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện E là đại diện duy nhất của Việt Nam tham gia buổi Hội thảo trực tuyến quốc tế Phẫu thuật tái tạo van động mạch chủ bằng phương pháp Ozaki cùng với 3 điểm cầu tại Đại học Bệnh viện Kyushu (Fukuoka, Nhật Bản), Đại học Sakra World (Bengaluru, Ấn Độ), Trung tâm Tim mạch Quốc gia Harapan Kita (Jakarta, Indonesia). GS. BS Shinji Miyamoto – Đại học Bệnh viện Kyushu (Fukuoka, Nhật Bản) nhấn mạnh: Trước đây bệnh van động mạch chủ được điều trị bằng phẫu thuật thay van nhân tạo. Ngày nay, phẫu thuật tái tạo van động mạch chủ Ozaki sử dụng màng tim tự thân được sử dụng rộng rãi. Phẫu thuật Ozaki bắt đầu từ năm 2007. Việc điều trị đã được thực hiện trên toàn thế giới với hơn 2000 trường hợp và đã chứng minh được tính ưu việt của phương pháp này. Hội thảo này sẽ giới thiệu cho các bác sĩ phẫu thuật tim mạch về các khía cạnh thiết yếu của phẫu thuật tái tạo van động mạch chủ Ozaki, được trình bày theo từng bước có dẫn chứng bằng hình ảnh sinh động của từng ca bệnh cụ thể do GS Shinji Ozaki cùng các đồng nghiệp thực hiện. Hội thảo trực tuyến quốc tế Phẫu thuật tái tạo van động mạch chủ bằng phương pháp Ozaki cùng với 3 điểm cầu GS, TS. Lê Ngọc Thành, Giám đốc Bệnh viện E khẳng định, Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E được lựa chọn là 1 trong 4 điểm cầu quốc tế tham gia Hội thảo trực tuyến quốc tế Phẫu thuật tái tạo van động mạch chủ bằng phương pháp Ozaki. Hơn hết, Trung tâm Tim mạch là một trong những nơi triển khai thành công phẫu thuật tái tạo van động mạch chủ bằng phương pháp Ozaki. Năm 2013, GS Shinji Ozaki đã giới thiệu kỹ thuật tái tạo van động mạch chủ bằng mang tim tự thân theo phương pháp Ozaki tới các bác sĩ Việt Nam thông qua ca phẫu thuật cho bệnh nhân đầu tiên ở nước ta được thực hiện tại Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện E. Đến nay, người bệnh có cuộc sống trở về bình thường, van tim hoạt động rất tốt, không phải dùng thuốc chống đông máu... Theo lời mời hợp tác của GS, TS. Lê Ngọc Thành với mong muốn ứng dụng những tiến bộ công nghệ khắc phục nhược điểm của van tim nhân tạo truyền thống, nâng cao chất lượng cuộc sống của người bệnh sau phẫu thuật, GS Ozaki và kíp phẫu thuật Nhật Bản đã nhiều lần đến giảng dạy, đào tạo và chuyển giao công nghệ cho các bác sĩ Việt Nam tại Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E theo phương pháp cầm tay chỉ việc. Sau 4 năm chương trình hoàn tất, từ tháng 7/2017  nhóm phẫu thuật của Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E đã độc lập thực hiện kỹ thuật. Sau 5 năm, với các khóa đào tạo trong và ngoài nước, với phương pháp cầm tay chỉ việc, đến nay, phương pháp Ozaki đã được chuyển giao thành công, thực hiện thường quy tại Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện E cho những trường hợp thương tổn van động mạch chủ trước đây phải thay van nhân tạo. Đặc biệt với những trường hợp thương tổn một hoặc hai cánh van chỉ cần thay từng cánh riêng lẻ, hoặc những bệnh nhân thương tổn nhiều van tim việc tái tạo lại van động mạch chủ cũng tránh cho người bệnh phải mang nhiều van tim nhân tạo trong người. Các kỹ thuật khó này đã được các kíp phẫu thuật của Trung tâm thực hiện thành công. Đến nay, sau 15 tháng làm chủ kỹ thuật này, các bác sĩ Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện E đã phẫu thuật cho 107 bệnh nhân với kết quả thành công hết sức ấn tượng. GS, TS. Lê Ngọc Thành cho biết, đây là kỹ thuật của tương lai rất phù hợp với những quốc gia như Việt Nam có mức thu nhập của người dân còn thấp, kiểm soát đông máu sau mổ kém và bệnh nhân ở vùng sâu, vùng xa là phổ biến. Tính ưu việt của phương pháp phẫu thuật này là sử dụng vật liệu tự thân làm van tim, giúp cho người bệnh không phải dùng van nhân tạo, giảm nguy cơ nhiễm trùng van sau mổ. Mặt khác, với ưu điểm có diện tích hiệu dụng lớn, chênh lệch áp lực qua van tự tạo rất thấp do không làm thu hẹp vòng van nên rất hữu ích với những bệnh nhân có vòng van bé, trẻ nhỏ cơ thể còn tiếp tục phát triển… Ngoài ra, bệnh nhân không phải dùng thuốc chống đông sau mổ, hạn chế được những biến chứng khi dùng thuốc chống đông. Chi phí điều trị cho bệnh nhân có chỉ định thay van động mạch chủ sẽ giảm, vì bệnh nhân không mất chi phí mua van tim nhân tạo (khoảng 40 triệu đồng). Với tư cách là Chủ tịch Hội Phẫu thuật tim mạch và lồng ngực Việt Nam, GS, TS. Lê Ngọc Thành mong muốn sẽ chuyển giao kỹ thuật tiên tiến này cho các bác sĩ chuyên ngành tim mạch ở các bệnh viện: Chợ Rẫy (TP Hồ Chí Minh), Y Dược TP Hồ Chí Minh, Nhi Trung ương, Tim Hà Nội, đa khoa Việt Tiệp (Hải Phòng), đa khoa Thanh Hóa, đa khoa Thái Bình, đa khoa Hải Dương… giúp người bệnh được hưởng lợi từ những tiến bộ khoa học trong điều trị các bệnh lý tim mạch, trong đó có van động mạch chủ. Hồng Thiết

Lễ ký kết dự án thúc đẩy xây dựng khung khổ quan hệ lao động mới

TĐKT - Ngày 9/11, tại Hà Nội, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐ-TBXH) phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức Lễ ra mắt, ký kết văn kiện Dự án “Thúc đẩy xây dựng khung khổ quan hệ lao động mới đảm bảo tôn trọng Tuyên bố của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động”. Đến dự, có Thứ trưởng Bộ LĐ-TBXH Doãn Mậu Diệp. Lễ ký kết văn kiện Dự án giữa Thứ trưởng Bộ LĐ-TBXH Doãn Mậu Diệp và Giám đốc Văn phòng ILO tại Hà Nội Chang Hee Lee Dự án “Thúc đẩy xây dựng khung khổ quan hệ lao động mới đảm bảo tôn trọng Tuyên bố của ILO về những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động” (gọi tắt là Dự án NIRF) do ILO tài trợ với hạn mức vốn dự án bao gồm: Vốn ODA không hoàn lại là 4.274.109 USD trong đó 2.964.290 USD từ nguồn ủy thác tài trợ của Chính phủ Nhật Bản; vốn đối ứng từ ngân sách nhà nước khoảng 2 tỷ đồng bằng hiện vật đóng góp bằng cơ sở vật chất, phương tiện làm việc và tiền lương chi cho cán bộ làm dự án. Thời gian thực hiện dự án năm 2018 - 2019. Phát biểu tại Lễký kết, ra mắt dự án, Thứ trưởng Bộ LĐ-TBXH Doãn Mậu Diệp cho biết, việc triển khai dự án sẽ đóng góp quan trọng trong việc giải quyết những tồn tại của hệ thống quan hệ lao động hài hòa tại doanh nghiệp theo chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng tại Chỉthị số 22-CT/TW ngày 5/6/2018, đồng thời giúp Việt Nam sớm nội luật hóa các tiêu chuẩn lao động quốc tế phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội để thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Dự án đặt mục tiêu xây dựng nền tảng về pháp luật và thiết chế hiệu quả cho khung khổ quan hệ lao động mới ở Việt Nam dựa trên Tuyên bố về các Nguyên tắc và Quyền cơ bản trong lao động của ILO với điểm nhấn đặc biệt vào Công ước 87 (Tự do Liên kết và Bảo vệ quyền tổ chức) và Công ước 98 (Quyền tổchức và thương lượng tập thể). Trong đó, Dự án NIRF sẽ tập trung vào bốn mục tiêu cụ thể: Đảm bảo pháp luật lao động quốc gia và các công cụpháp lý phù hợp với Tuyên bố về các Nguyên tắc và Quyền Cơ bản trong Lao động của ILO; quản trị quan hệ lao động xây dựng chính sách quốc gia về quan hệ lao động hiệu quả; đẩy mạnh hiệu quả thực thi thanh tra lao động và thúc đẩy tuân thủ pháp luật lao động quốc gia; chức năng đại diện người lao động và người sử dụng lao động được tăng cường trong khung khổ quan hệ lao động mới. Hồng Thiết

Các doanh nghiệp du lịch Hà Nội ký cam kết thực hiện Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá

TĐKT – Tại Hội nghị triển khai hoạt động xây dựng môi trường không khói thuốc lá tại các nhà hàng, khách sạn và các địa điểm du lịch ở Hà Nội tổ chức sáng 8/11, nhiều doanh nghiệp du lịch Hà Nội đã ký cam kết thực hiện Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá và xây dựng đơn vị nhà hàng, khách sạn, điểm du lịch không khói thuốc. Tại Hội nghị, các địa biểu đã trình bày về hoạt động phòng, chống tác hại của thuốc lá; tác hại của hút thuốc, hút thuốc thụ động và đề án xây dựng môi trường không khói thuốc lá tại các nhà hàng, khách sạn và địa điểm du lịch ở Hà Nội. Đại diện Trung tâm Nghiên cứu và trợ giúp phát triển cộng đồng (CDS) nhấn mạnh, việc thực hiện môi trường không khói thuốc lá trong các cơ sở dịch vụ du lịch là biện pháp hữu hiệu để thực hiện quyền của mọi người được hít thở bầu không khí trong lành; giúp nhân viên trong ngành và du khách giảm nguy cơ mắc bệnh và tử vong do phơi nhiễm với hút thuốc lá thụ động; hạn chế các nguy cơ cháy nổ, giảm chi phí vệ sinh môi trường; đồng thời góp phần bảo vệ cảnh quan du lịch, tạo môi trường du lịch trong lành, hấp dẫn. Đại diện các doanh nghiệp, đơn vị ký cam kết thực hiện luật phòng, chống tác hại của thuốc lá và xây dựng đơn vị không khói thuốc Bà Phan Thị Hải, Phó Giám đốc Quỹ Phòng, chống tác hại thuốc lá cho biết: Mặc dù pháp luật Việt Nam đã quy định cấm hút thuốc lá ở các khu vực trong nhà và nơi công cộng, tuy nhiên hiện nay tỷ lệ hút thuốc và hút thuốc thụ động tại các nhà hàng và khách sạn vẫn ở mức cao, đặc biệt là ở các quán bar. Để thực thi tốt các quy định về phòng, chống tác hại thuốc lá cần có sự phối hợp chặt chẽ của các bên liên quan. Tại Hội nghị, nhiều đơn vị hoạt động trong lĩnh vực du lịch đã ký cam kết thực hiện luật phòng, chống tác hại của thuốc lá và xây dựng đơn vị không khói thuốc. Theo đó, các doanh nghiệp thuộc Hiệp hội Du lịch Hà Nội cam kết thực hiện đúng các quy định của Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá và xây dựng mô hình Đơn vị không khói thuốc. Cụ thể, có nội quy hoặc biển báo cấm hút thuốc rõ ràng và đặt tại những vị trí dễ quan sát tại các khu vực cấm hút thuốc; thường xuyên nhắc nhở khách không hút thuốc tại những khu vực có quy định cấm hút thuốc; không có hiện tượng hút thuốc lá, gạt tàn và đầu mẩu thuốc lá tại những khu vực có quy định cấm hút thuốc; không có hiện tượng mua, bán thuốc lá trong khuôn viên của đơn vị; không quảng cáo, khuyến mại và tiếp thị thuốc lá dưới mọi hình thức; không nhận hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp của công ty thuốc lá hay các tổ chức liên quan đến công ty thuốc lá dưới bất kỳ hình thức nào… Nội dung cấm hút thuốc lá và tiêu chí Đơn vị không khói thuốc lá được đưa vào quy định nội bộ của đơn vị và có chế độ thưởng, phạt cụ thể. Đối với những đơn vị được phép có nơi dành riêng cho người hút thuốc lá (các khách sạn) thì nơi dành riêng cho người hút thuốc phải đảm bảo các điều kiện sau: Có phòng và hệ thống thông khí tách biệt với các khu vực không hút thuốc lá; có dụng cụ chứa các mẩu, tàn thuốc lá; có biển báo tại các vị trí phù hợp, dễ quan sát; có thiết bị phòng cháy, chữa cháy. Phát biểu tại Hội nghị, Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Hà Nội Nguyễn Mạnh Thản hi vọng những mô hình không khói thuốc lá sẽ ngày càng được nhân rộng trên địa bàn Hà Nội, vì mục đích cải thiện môi trường du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, góp phần xây dựng môi trường du lịch xanh, sạch, đẹp và văn minh. Hưng Vũ

Kinh nghiệm khai thác và đề xuất giải pháp phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện

TĐKT - Sau hai ngày tổ chức, Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm khai thác và đề xuất giải pháp phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện do Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam tổ chức đã kết thúc thành công. Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Trần Đình Liệu và Chủ tịch HĐTV Tổng Công ty Bưu điện Phạm Anh Tuấn chủ trì Hội thảo. Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Trần Đình Liệu cho biết, theo tinh thần chỉ đạo của Trung ương tại Nghị quyết 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH, Nghị quyết 102/NQ-CP về việc giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện và Nghị quyết 125/NQ-CP về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 28…, nhiệm vụ phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện thời gian qua cơ bản được các cấp chính quyền, ban ngành, đoàn thể ủng hộ, Phó Tổng Giám đốc Trần Đình Liệu phát biểu tại hội thảo Tuy nhiên, tỷ lệ người dân tham gia BHXH tự nguyện vẫn còn thấp so với tiềm năng. Tính đến 30/9/2018, cả nước mới có 189.502 người tham gia, đạt 57,2% kế hoạch được giao. Nguyên nhân chủ yếu là do một số đối tượng tham gia nghỉ hưởng chế độ BHXH hoặc chuyển đối tượng theo quy định; người dân chưa hiểu đầy đủ về chính sách, thu nhập còn thấp và không ổn định, nhiều người chưa có thói quen tham gia BHXH khi còn trẻ để hưởng lương hưu khi về già, chưa giao chỉ tiêu cụ thể cho từng đại lý thu. Theo đó, từ nay đến hết năm 2018, toàn ngành cần phải phát triển 141.730 người tham gia - đây được xem là nhiệm vụ khá khó khăn đối với các địa phương. Với kinh nghiệm của một số địa phương làm tốt (Điện Biên, Quảng Bình, Cao Bằng, Hải Dương, Thừa Thiên - Huế, Ninh Bình, Phú Yên…), Phó Tổng Giám đốc tin tưởng rằng, công tác mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện sẽ phát triển xứng đáng với tiềm năng. Tại Hội thảo, Phó Tổng Giám đốc Trần Đình Liệu đề nghị BHXH các tỉnh, thành phố cần tăng cường mở rộng, kiểm tra, giám sát hoạt động của các đại lý thu; tập trung đào tạo đội ngũ cộng tác viên ngoài ngành; lựa chọn, xây dựng kế hoạch tuyên truyền phù hợp với từng nhóm đối tượng; niêm yết công khai tên, địa điểm, số điện thoại đại lý thu, nâng cao chất lượng phục vụ đối tượng tham gia; giao chỉ tiêu phát triển đối tượng cho từng đại lý thu cũng như đánh giá, khen thưởng kịp thời. Ngoài ra, từ nay đến trước ngày 15/1/2019, BHXH các tỉnh, thành phố phải hoàn thiện chi tiết Đề án phát triển BHXH tự nguyện để gửi về BHXH Việt Nam. La Giang

Hội thảo ung thư Việt - Pháp lần thứ 2 với chuyên đề “Ung thư phổi”

TĐKT - Ngày 7/11, tại Hà Nội, Bệnh viện K khai mạc Hội thảo ung thư Việt - Pháp lần thứ 2 với chuyên đề “Ung thư phổi”. Đây là cơ hội trao đổi, nâng cao chuyên môn giữa các thầy thuốc của hai nước trong lĩnh vực ung thư. Trong những năm qua, y tế là một trong những trụ cột hợp tác chính và là lĩnh vực hợp tác năng động, có ý nghĩa nhất trong mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Cộng hòa Pháp. Pháp đã hỗ trợ, đào tạo cho hơn 3.000 bác sĩ nội trú Việt Nam tại Pháp và 1.500 bác sĩ sau đại học tại Việt Nam. Các bác sĩ được đào tạo đều đã trở thành những giáo sư, bác sĩ giỏi, các chuyên gia y tế đầu ngành và rất nhiều trong số đó là những lãnh đạo chủ chốt của ngành y tế Việt Nam. Quang cảnh Hội thảo Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Thường trực Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến nhấn mạnh, ung thư đang trở thành gánh nặng lớn tại các quốc gia trên thế giới, đặc biệt với các nước nghèo, các nước đang phát triển. Tại Việt Nam, gánh nặng ung thư ngày càng gia tăng trên phạm vi cả nước và đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt của toàn xã hội. Năm 2018, cả nước ghi nhận 164.671 ca mắc mới ung thư, 114.871 trường hợp tử vong do ung thư. Hiện có hơn 300.000 người đang sống chung với bệnh ung thư. Phần lớn người bị bệnh ung thư ở Việt Nam đến khám và điều trị ở giai đoạn muộn nên việc điều trị càng khó khăn và tốn kém. GS.TS Trần Văn Thuấn, Giám đốc Bệnh viện K, Viện trưởng Viện Ung thư quốc gia cho biết thêm, ung thư phổi là loại ung thư phổ biến nhất trên thế giới ở cả hai giới. Theo Globocan 2018, mỗi năm trên thế giới có khoảng 2,09 triệu ca mới mắc và 1,76 triệu người tử vong do ung thư phổi. Tại Việt Nam, mỗi năm có khoảng 23.667 ca mới mắc và 20.170 ca tử vong do căn bệnh này. Vì thế, vấn đề nâng cao kiến thức về dự phòng, phát hiện sớm, chẩn đoán và điều trị ung thư phổi là vấn đề hết sức quan trọng, cần nhận được nhiều sự quan tâm của ngành Y tế nói riêng và xã hội nói chung. Nhiều năm nay, ung thư phổi vẫn đứng đầu trong số các loại ung thư ở Việt Nam. Tuy nhiên, theo số liệu từ đầu năm 2018 tới nay, tỷ lệ mắc ung thư phổi đã tụt xuống vị trí thứ 2 sau ung thư gan dù thực tế số mắc bệnh vẫn tăng lên. Do đó, Hội thảo này tập trung vào tất cả các lĩnh vực trong điều trị ung thư phổi, từ phẫu thuật, hóa chất, xạ trị, đặc biệt là bàn về liệu pháp điều trị miễn dịch – phương pháp mới nhất trong điều trị ung thư hiện nay. Hội thảo thu hút sự tham gia của nhiều giáo sư hàng đầu trong lĩnh vực ung thư đến từ Pháp, trong đó có các chuyên gia của 6 bệnh viện lớn ở Paris. Hội thảo lần này sẽ là cơ hội để các nhà khoa học trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và cập nhật kiến thức về dự phòng các yếu tố nguy cơ ung thư phổi, chẩn đoán cũng như các liệu pháp điều trị tiên tiến hiện nay cho ung thư phổi giai đoạn sớm và giai đoạn muộn. Hội thảo sẽ đưa ra một bức tranh đầy đủ hơn về việc kiểm soát bệnh, mục tiêu quan trọng nhất là định hướng đường lối và chiến lược phòng chống Ung thư phổi tại Việt Nam. Hội thảo Ung thư Việt – Pháp sẽ kết thúc vào ngày 9/11. Hồng Thiết

Chất lượng mạng 3G/4G của VinaPhone vượt chuẩn Việt Nam

TĐKT - Cuối tháng 10 vừa qua, Cục Viễn thông – Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) vừa công bố kết quả đo kiểm đối với dịch vụ truy cập Internet (3G và 4G). Theo đó, tất cả các chỉ số về chất lượng mạng của VinaPhone đều vượt so với quy chuẩn của Bộ Thông tin và Truyền thông. Cụ thể, tỷ lệ truy nhập thành công dịch vụ của VinaPhone đạt 99,93%, trong khi quy chuẩn (QCVN 81:2014/BTTTT) là ≥ 90%; độ sẵn sàng của mạng vô tuyến là 99,72% (quy chuẩn là ≥ 95%), thời gian trễ truy cập dịch vụ trung bình là 1,85 giây (quy chuẩn 10 giây)… Chất lượng mạng 3G/4G của VinaPhone vượt chuẩn Việt Nam Tuy nhiên, không đợi vào kết quả đánh giá của cơ quan quản lý, nhiều năm qua, VinaPhone luôn chủ động sử dụng các công cụ đo lường chất lượng mạng khác nhằm đánh giá và đo kiểm khách quan. Qua đó, nhà mạng này có thể bổ sung, hoàn thiện tốt nhất cho hạ tầng mạng lưới của mình. Đơn cử, VinaPhone đã sử dụng OpenSignal – công cụ quốc tế giúp thống kê và so sánh chất lượng Internet của các nhà mạng di động. Công cụ này hoạt động trên cơ chế: Dựa vào tín hiệu thu được từ máy người dùng phân tích dữ liệu trên các nền tảng Android và iOS. Các thông tin thống kê bao gồm: Loại công nghệ (2G/3G/4G), mức thu, tốc độ DL/UL, độ trễ). Một công cụ khác cũng được nhiều nhà mạng sử dụng là Speedtest. Tuy nhiên, Speedtest chỉ là công cụ đo tốc độ DL/UL, độ trễ từ 1 máy smartphone đến một địa chỉ server test xác định và kết quả phụ thuộc vào việc đo gần đường truyền kết nối của nhà mạng nào. Chính vì vậy, OpenSignal cung cấp thông số khách quan và chính xác hơn so với Speedtest, do đo lường trải nghiệm thực tế từ người dùng. Trên thế giới, OpenSignal được xem là công cụ chính thống để so sánh chất lượng mạng theo hướng trải nghiệm khách hàng. Cũng theo OpenSignal tốc độ tải Dữ liệu của VinaPhone cả 3G và 4G đều dẫn đầu các nhà mạng tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Với mục tiêu đem đến đến trải nghiệm tốt nhất cho người dùng, nhà mạng VinaPhone còn sử dụng phương pháp đo Bench Marking – phương thức đo, so sánh chất lượng giữa các nhà mạng trong cùng một điều kiện, sử dụng driving-test/warking-test (đo theo tuyến/điểm với cùng lúc nhiều SIM của nhiều nhà mạng cần so sánh). Các thông số Bench Marking đa dạng hơn, nhằm đánh giá toàn diện chất lượng mạng với 9 chỉ tiêu: Tỷ lệ thiết lập cuộc gọi thành công (CSSR), tốc độ DL tối đa (MAX DL), tốc độ DL trung bình (AVG DL), tốc độ UL tối đa (MAX UL), tốc độ UL trung bình (AVG UL), độ trễ trung bình (AVG PING), tỷ lệ phiên data thành công, độ sẵn sàng mạng 4G; độ sẵn sàng mạng 3G. Theo kết quả Quý III/2018, VinaPhone dẫn đầu5 chỉ tiêu trên 43 tỉnh/thành phố. Đến nay, VinaPhone đã có gần 60 ngàn trạm BTS 3G và 4G, có khả năng đáp ứng cho khoảng 40 triệu thuê bao có thể sử dụng – nhiều hơn so với số thuê bao 3G và 4G mà VinaPhone đang có. Theo đại diện VinaPhone, bên cạnh chiến lược phát triển hạ tầng mạng lưới rộng khắp, VinaPhone tập trung xây dựng mạng lưới, hạ tầng thật mạnh tại các thành phố lớn, trọng điểm, bởi những địa bàn này có lượng dân số rất đông. Một hạ tầng tốt sẽ đem lại những trải nghiệm tốt nhất cho người dùng. Hồng Thiết

Cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến phòng, chống tác hại của rượu, bia

TĐKT - Ngày 8/11, tại Hà Nội, Bộ Y tế tổ chức Hội thảo về cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến phòng, chống tác hại của rượu, bia và khuyến nghị của các tổ chức phi chính phủ đối với dự án Luật phòng, chống tác hại của rượu, bia. Dự và chủ trì Hội thảo có: TS. Nguyễn Huy Quang, Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Y tế. Cùng dự có, lãnh đạo các bộ, ban, ngành, lãnh đạo các Vụ, Cục thuộc Bộ Y tế, đại diện Văn phòng Tổ chức Y tế thế giới tại Việt Nam ông Jun Nakagawa;  Liên minh phòng chống các bệnh không lây nhiễm Việt Nam (NCDs-VN), Tổ chức Nhịp cầu sức khoẻ (HealthBridge Canada) tại Việt Nam, Liên minh chính sách đồ uống có cồn toàn cầu (GAPA). Hội thảo cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến phòng, chống tác hại của rượu, bia Theo cam kết của Việt Nam liên quan đến phòng, chống tác hại của rượu, bia, chương trình nghị sự phát triển bền vững đến năm 2030 đã được lãnh đạo của 154 quốc gia thành viên (trong đó có Việt Nam) thông qua trong Kỳ họp lần thứ 70 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc vào năm 2015 tại NewYork, gồm 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) với 169 chỉ tiêu, xoay quanh khía cạnh giúp phát triển con người bền vững, đó là: xã hội, môi trường và kinh tế. Trong đó, Việt Nam đã cam kết: Mục tiêu phát triển bền vững số 3.4: Giảm 20 - 25% tỷ lệ tử vong trước 70 tuổi do các bệnh không lây nhiễm (NCDs) thông qua dự phòng và điều trị, nâng cao sức khỏe tinh thần và thể chất đến năm 2030. Mục tiêu phát triển bền vững số 3.5: giảm 10% tỷ lệ sử dụng rượu, bia ở mức nguy hại vào năm 2030). Trong khi hiện nay, mức độ tiêu thụ rượu, bia tại Việt Nam đang ở mức báo động với mức tiêu thụ rượu, bia bình quân đầu người (trên 15 tuổi cả hai giới) quy đổi theo cồn nguyên chất là 8,3 lít năm 2016. Đặc biệt là tỷ lệ uống rượu, bia ở mức nguy hại đang ở mức cao, cụ thể: 44,2% nam giới và 1.2% nữ giới sử dụng rượu, bia ở mức có hại (tức là trong 30 ngày qua có ít nhất 1 lần uống từ 60g cồn trở lên). Do đó, sử dụng rượu, bia đang là trở ngại lớn trong việc đạt được 13 trong tổng số 17 mục tiêu và 52 chỉ tiêu phát triển bền vững. Sử dụng rượu, bia là trở ngại cho sự phát triển bởi chúng hủy hoại nguồn nhân lực và cản trở sự phát triển bền vững của con người, bao gồm các mục tiêu: Xóa đói; xóa nghèo; đảm bảo cuộc sống khỏe mạnh và nâng cao phúc lợi; đảm bảo giáo dục có chất lượng; bình đẳng giới; đảm bảo nước sạch và nguồn cung ứng nước; tăng trưởng kinh tế và việc làm bền vững; giảm bất bình đẳng; đô thị và nông thôn bền vững; tiêu dùng và sản xuất có trách nhiệm; bảo vệ khí hậu; xã hội hòa bình; quan hệ đối tác toàn cầu. Trong đó, việc đạt được mục tiêu 3.4 và 3.5 trên đây là hết sức khó khăn nếu không có một hành làng pháp lý đủ mạnh để can thiệp nhằm phòng, chống tác hại của rượu, bia. Do đó, việc ban hành Luật phòng, chống tác hại của rượu, bia là một công cụ pháp lý mạnh mẽ nhất để thực hiện các cam kết của Việt Nam về phát triển bền vững. Hồng Thiết

Trang