Bệnh viện Bạch Mai tiếp nhận máy giải trình tự gien do Hoa Kỳ trao tặng
TĐKT - Bệnh viện Bạch Mai đã tổ chức đón nhận 1 máy giải trình tự gien của Bộ Quốc phòng Hợp chủng quốc Hoa Kỳ trao tặng. Đây là một trong hai máy giải trình tự gien được Hoa Kỳ trao tặng cho Việt Nam, đặt tại Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Bạch Mai. PGS. TS Nguyễn Trường Sơn, Thứ trưởng Bộ Y tế phát biểu tại lễ trao tặng PGS. TS. Đào Xuân Cơ, Phó Giám đốc phụ trách Bệnh viện Bạch Mai cho biết, trong nhiều năm qua, Bộ Y tế nói chung và Bệnh viện Bạch Mai nói riêng luôn nhận được sự quan tâm và ủng hộ của Chính phủ Hoa Kỳ trong lĩnh vực y tế thông qua các dự án hợp tác với CDC Hoa Kỳ tại Việt Nam trong Nghiên cứu khoa học; tăng cường hỗ trợ kỹ thuật phòng, chống HIV/AIDS (EPIC); kiểm soát phòng ngừa nhiễm trùng & kháng thuốc; nâng cao năng lực phòng xét nghiệm; nâng cao năng lực về kiểm soát nhiễm khuẩn. Các dự án này đã được triển khai rất hiệu quả. Máy giải trình tự gien của hãng Illumina do Bộ Quốc phòng Hợp chủng quốc Hoa Kỳ trao tặng cho Bệnh viện Bạch Mai có tác dụng phân tích, giải trình tự gien của các virus, giúp xác định kịp thời những biến chủng của virus SARS-CoV-2. Bên cạnh đó, giải trình tự gien giúp phát hiện các đột biến gien và các gien lạ có thể là nguy cơ gây bệnh trên cơ thể con người (như ung thư), hoặc chẩn đoán các bệnh về não bộ và thần kinh, các bệnh di truyền hay xác định các trường hợp nhiễm nấm, vi khuẩn… Lễ trao tặng Theo Đại biện lâm thời Phái đoàn Ngoại giao Hoa Kỳ tại Việt Nam Marie Damour, lễ bàn giao máy giải trình tự gien có ý nghĩa quan trọng trong hợp tác y tế song phương bởi việc giải trình tự gien các virus, vi khuẩn trong đó bao gồm biến thể COVID-19 sử dụng để nghiên cứu phát triển các loại vaccine mới hiệu quả hơn góp phần bảo vệ người dân cả hai nước. Bà nhấn mạnh, đây là một trận chiến mà chúng ta sẽ chiến thắng và chúng ta chỉ có thể chiến thắng cùng nhau, cùng nhau vượt qua những thách thức mà đại dịch gây ra, cùng nhau cải thiện được cuộc sống của người dân trên khắp đất nước Việt Nam, Hoa Kỳ và trên toàn thế giới. Cũng tại buổi lễ, PGS.TS Nguyễn Trường Sơn, Thứ trưởng Bộ Y tế cho biết, đã 26 năm kể từ khi Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, mối quan hệ của hai nước kể từ đó đã phát triển rất tốt đẹp. Thứ trưởng nhấn mạnh, trong chuyến thăm Việt Nam tháng 8/2021, Phó Tổng thống Hoa Kỳ Kamala Harris đã nhấn mạnh bên cạnh an ninh và kinh tế thì y tế là 1 trong 3 cam kết ưu tiên mà Hoa Kỳ dành cho Việt Nam, nâng tầm mối quan hệ đối tác toàn diện hiện nay giữa hai nước lên đối tác chiến lược. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 đang diễn ra hết sức phức tạp ở hai nước nói riêng và trên thế giới nói chung, thì những cam kết và hỗ trợ từ phía Hoa Kỳ rất có ý nghĩa với Việt Nam. Cho tới nay, Việt Nam đã nhận được tổng số gần 15 triệu liều vaccine từ Hoa Kỳ thông qua cơ chế COVAX. Hoa Kỳ hiện là quốc gia tặng vaccine COVID-19 nhiều nhất cho Việt Nam. Ngày 12/10 vừa qua, phía Hoa Kỳ cũng đã chuyển giao 77 tủ âm sâu. Cùng với cam kết của Hoa Kỳ hỗ trợ Việt Nam trong việc tiếp cận các nguồn cung vaccine, cũng như trong sản xuất và chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine, Thứ trưởng Nguyễn Trường Sơn tin rằng Việt Nam sẽ sớm khắc phục tác động của dịch COVID -19 và phục hồi kinh tế nhanh chóng. Nhân dịp này, thay mặt Bệnh viện Bạch Mai, PGS.TS. Đào Xuân Cơ gửi lời cảm ơn chân thành tới Bộ Quốc phòng Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và Cơ quan Kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ (CDC) tại Việt Nam và đặc biệt là sự quan tâm của Bộ Y tế đã tạo điều kiện cho Bệnh viện Bạch Mai có cơ hội được nhận món quà vô cùng ý nghĩa này. Bệnh viện cam kết sẽ sử dụng máy thật hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho người dân Việt Nam. La GiangChính trị - Xã hội
TĐKT - Thấy có dấu hiệu sút cân nhanh, khản tiếng và ho kèm đau nhiều suốt 2 tháng, ông Nguyễn Công H. (71 tuổi) quê tại Bắc Ninh mới vội vàng đến Bệnh viện K khám. Với chẩn đoán ung thư hạ họng giai đoạn cuối, di căn thực quản, các bác sĩ đã thực hiện ca mổ 2 trong 1 vừa điều trị lấy triệt để khối u, vừa tái tạo đường ăn cho bệnh nhân.
Sau 10 ngày, hiện sức khỏe ông H. ổn định, ăn uống trở lại bình thường.
Anh Nguyễn Công Q. 50 tuổi, con trai cụ H.chia sẻ “Trong 2 tháng, bố tôi sút 5kg; ho nhiều và ngày càng mất tiếng, khó khăn trong giao tiếp, ăn uống, vì dịch nên trì hoãn đi khám. Lên đến bệnh viện tỉnh thì được bác sĩ chuyển đến Bệnh viện K, sau khi khám, nội soi và làm một số xét nghiệm thì bác sĩ có chẩn đoán u ác hạ họng, tôi và gia đình cũng rất buồn và bất ngờ, bệnh cũng di căn nên càng lo lắng hơn”.
Cụ H.có u lớn vùng xoang lê phải, lan xuống vùng miệng thực quản, kết quả giải phẫu bệnh ung thư tế bào vẩy (SCC), giai đoạn 4, T3N1M0. Vì khối u ngày càng phát triển, nếu không đưa ra quyết định sớm để điều trị thì sẽ khiến chất lượng sống của bệnh nhân bị ảnh hưởng nghiêm trọng và sức khỏe chắc chắn sẽ diễn biến xấu hơn.
Cuối tháng 10/2021, sau nhiều buổi hội chẩn liên khoa, toàn bệnh viện về ca bệnh này, các bác sĩ quyết định giải thích, trao đổi với gia đình để thực hiện phẫu thuật cho bệnh nhân H.
Hình ảnh được chụp sau khi tái tạo đường ăn cho bệnh nhân ung thư hạ họng
TS.BS Phạm Văn Bình, Phó Giám đốc chuyên môn Bệnh viện K, Trưởng khoa Ngoại bụng 1 chia sẻ, trên nền bệnh nhân tuổi cao, ung thư miệng thực quản và 1/3 trên thực quản, đã tiến triển lan rộng, chúng tôi xác định đây là ca phẫu thuật khó, nhiều nguy cơ, biến chứng có thể xảy ra như mất máu trong mổ, khó khăn trong nạo vét hạch và còn một vấn đề cực kỳ quan trọng cần thực hiện đó là tái tạo đường ăn cho bệnh nhân. Vì vậy, ngay từ thời điểm hội chẩn, 2 ekip đã thống nhất phương án, kỹ thuật trong mổ làm sao để can thiệp lấy hoàn toàn khối u để đảm bảo về mặt ung thư học; vừa cải thiện được đường ăn cho bệnh nhân về lâu về dài.
2 ekip gồm chuyên khoa tiêu hóa do TS.BS Phạm Văn Bình, Phó Giám đốc chuyên môn Bệnh viện K – Trưởng ekip; chuyên khoa Tai mũi họng do ThS.BS CKII Nguyễn Tiến Hùng, Trưởng khoa Ngoại tai mũi họng, Trưởng ekip đã thực hiện ca phẫu thuật kéo dài 10 tiếng cho bệnh nhân. Ca phẫu thuật được thực hiện gồm 2 bước, đầu tiên là tiến hành cắt thanh quản hạ họng toàn phần, 3cm trên của thực quản PLOT, nạo vét hạch cho bệnh nhân. Chúng tôi cẩn trọng, tỉ mỉ trong từng thao tác để không có bất kỳ một sơ suất nào, cầm máu tối đa trên nền bệnh nhân cao tuổi”.
Sau khi ekip tai mũi họng đã thực hiện xong bước 1, ekip chuyên khoa tiêu hóa cũng ngay lập tức tiến hành dùng đoạn hỗng tràng nối họng và thực quản để tái tạo đường ăn cho bệnh nhân. Đây là kỹ thuật khó và tiên tiến trong phẫu thuật ung thư miệng thực quản và 1/3 trên thực quản. Trước đây các ca mổ ung thư 1/3 trên thực quản và miệng thực quản gặp khó khăn trong vấn đề nạo vét hạch cổ các nhóm IV, V và việc tái tạo vẫn được thực hiện bằng kỹ thuật ống dạ dày(Gastric Pull up). Tuy nhiên, sự kết hợp với 2 chuyên khoa Tiêu hóa - Tai mũi họng đã đảm bảo thực hiện thành công, nạo vét hạch cổ và tái tạo bằng vạt hỗng tràng, phương pháp này có nhiều ưu điểm hơn như tỷ lệ liền của vạt cao, hậu phẫu nhẹ nhàng hơn, tốt hơn rất nhiều so với phẫu thuật ống dạ dày.
Hiện tại, sau 10 ngày cụ H. hoàn toàn tỉnh táo, đi lại bình thường miệng nối liền tốt, ăn uống qua đường xông trở lại với sự hướng dẫn kỹ càng của bác sĩ chuyên khoa và Trung tâm dinh dưỡng lâm sàng Bệnh viện K.
Ngoài việc đảm bảo điều trị cho bệnh nhân đạt kết quả khả quan nhất, nâng cao chất lượng sống cho bệnh nhân thì vấn đề hậu phẫu, chăm sóc sau mổ, chế độ dinh dưỡng, chăm sóc toàn diện cũng ngày càng được chú trọng tại bệnh viện K, giúp người bệnh và gia đình yên tâm hơn khi lựa chọn Bệnh viện K là nơi chăm sóc sức khỏe, điều trị bệnh lý ung bướu, nhất là tại thời điểm dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp như hiện nay.
Hồng Thiết
TĐKT - Chiều ngày 9/11, tại Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, Bộ Y tế đã tiếp nhận 1.910 tủ lạnh bảo quản vắc-xin, 5 triệu bơm kim tiêm và 50.000 hộp an toàn trong khuôn khổ dự án do Chính phủ Australia phối hợp với UNICEF hỗ trợ cho công tác tiêm chủng vắc xin phòng COVID-19 tại Việt Nam.
Đến dự, có: Bộ trưởng Bộ Y tế, GS.TS. Nguyễn Thanh Long; Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên; Thượng nghĩ sỹ Marise Payne, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Bộ trưởng Bộ Phụ nữ Australia, bà H.E Robyn Mudie - Đại sứ Australia tại Việt Nam, bà Rana Flowers, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam.
Tiếp nhận thiết bị dây chuyền lạnh và vật tư tiêm chủng do Chính phủ Australia và UNICEF hỗ trợ
Phát biểu tại Lễ bàn giao, Bộ trưởng Bộ Y tế, GS.TS.Nguyễn Thanh Long cảm ơn sự hỗ trợ quý báu của Chính phủ, nhân dân Australia và UNICEF. Trong thời gian vừa qua, hợp tác y tế giữa hai nước ngày càng được tăng cường, thúc đẩy thông qua hợp tác chuyên môn, kỹ thuật giữa các đơn vị trực thuộc của Bộ Y tế với các bệnh viện, trường đại học và các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực y tế của Úc. Trong đại dịch COVID-19, Chính phủ Úc đã không ngừng nỗ lực triển khai các cam kết cung ứng vắc xin COVID-19, hỗ trợ trang thiết bị, vật tư y tế cho Việt Nam cùng các nước Đông Nam Á – Thái Bình Dương thông qua thỏa thuận với UNICEF và Sáng kiến tiếp cận vắc xin và an ninh y tế.
Bộ Y tế gửi lời cảm ơn Chính phủ Úc đã cam kết hỗ trợ Việt Nam 5,2 triệu liều vắc xin phòng COVID-19. Trong bối cảnh toàn bộ hệ thống chính trị và nhân dân Việt Nam đang nỗ lực hết sức để kiểm soát và ngăn chặn sự lây lan của dịch COVID-19, sự hỗ trợ này có ý nghĩa to lớn, là nguồn động viên tinh thần và vật chất đối với Chính phủ và nhân dân Việt Nam trong giai đoạn khó khăn này.
Bộ Y tế cam kết sẽ phân bổ số vắc xin, vật tư y tế này tới các đơn vị và địa phương phòng, chống dịch căn cứ theo tình hình thực tế để đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch khẩn cấp, đảm bảo phù hợp, hiệu quả.
Thượng nghĩ sỹ Marise Payne, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Bộ trưởng Bộ Phụ nữ Australia nhấn mạnh, Australia cam kết hợp tác với Chính phủ Việt Nam và UNICEF trong việc hỗ trợ Việt Nam triển khai tiêm vắc xin COVID-19. Các trang thiết bị này sẽ giúp tăng cường nỗ lực tiêm vắc xin phòng, chống COVID-19 của Việt Nam. Là một người bạn và đối tác thân thiết của Việt Nam, Australia tự hào có thể hỗ trợ Việt Nam trong việc này.
Bà Rana Flowers, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam cho biết, thiết bị dây chuyền lạnh đảm bảo rằng vắc xin được bảo quản và phân phối an toàn. Sự đóng góp quan trọng này giúp tăng cường hệ thống tiêm chủng đến tận cấp xã - đảm bảo rằng người dân ngay cả ở những vùng xa xôi hẻo lánh đều được sử dụng vắc xin an toàn, bao gồm cả vắc xin phòng COVID-19. Đảm bảo công bằng trong tiêm chủng là cách chắc chắn nhất để thoát khỏi đại dịch và để chấm dứt các trường hợp tử vong có thể phòng ngừa được. Không ai được an toàn cho đến khi tất cả mọi người đều an toàn UNICEF rất vui mừng được chung tay với Chính phủ Australia hỗ trợ Việt Nam nâng cao năng lực của hệ thống y tế và tiêm chủng để phân phối vắc xin phòng COVID-19 một cách hiệu quả và công bằng.
Chương trình hợp tác giữa Chính phủ Australia - UNICEF nhằm hỗ trợ Việt Nam nhiều lĩnh vực quan trọng, góp phần thực hiện thành công, an toàn, hiệu quả chiến dịch tiêm chủng vắc xin phòng COVID-19. Cùng với việc hỗ trợ trang bị thiết bị dây chuyền lạnh và vật tư tiêm chủng, chương trình hợp tác hỗ trợ tập huấn nâng cao nâng lực cho nhân viên y tế, triển khai chiến dịch tiêm chủng tại các địa bàn miền núi vùng sâu vùng xa của Việt Nam, truyền thông vận động người dân tham gia tiêm chủng an toàn. Chính phủ Australia cam kết hỗ trợ Việt Nam tổng cộng 5,2 triệu liều vắc xin phòng COVID-19, bao gồm: 1,5 triệu liều vắc xin AstraZeneca do Australia sản xuất đã về tới Việt Nam trong những tháng qua và 3,7 triệu liều vắc xin phòng COVID-19 thông qua thỏa thuận mua sắm của Chính phủ Australia với UNICEF.
Hồng Thiết
Đôn đốc và tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong triển khai gói hỗ trợ từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp
TĐKT - Kiểm tra, đôn đốc, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là việc làm cần thiết hiện này mà BHXH đang triển khai. Giải quyết, hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của việc triển khai chính sách hỗ trợ người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 từ Quỹ BHTN, dưới sự chỉ đạo quyết liệt và sát sao của BHXH Việt Nam, thời gian qua, BHXH các tỉnh, thành phố đã luôn chủ động, tích cực, nỗ lực triển khai, đảm bảo chính sách hỗ trợ đến với NLĐ, NSDLĐ trên địa bàn nhanh chóng, chính xác, kịp thời, đúng người, đúng quy định. Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam Nguyễn Thế Mạnh làm việc với BHXH Hà Nội Thực hiện chỉ đạo của BHXH Việt Nam, nhằm triển khai thống nhất và hiệu quả, BHXH các tỉnh đã triển khai các giải pháp đồng bộ như: Thành lập Tổ công tác về tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, NLĐ bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 và Ban Chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết số 116/NQ-CP và Quyết định số 28/2021/QĐ-TTg; kịp thời báo cáo, tham mưu với UBND tỉnh, phối hợp với các sở, ban, ngành liên quan để tổ chức, thực hiện; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin…. với tinh thần rút ngắn thời gian giải quyết, không phát sinh thủ tục, hồ sơ để NLĐ, NSDLĐ nhận được hỗ trợ một cách sớm nhất. NLĐ rất phấn khởi, yên tâm, tin tưởng vào tính nhân văn của chính sách BHTN cũng như sự quan tâm, động viên kịp thời của Đảng và Nhà nước đối với NLĐ bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, đã giúp họ khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống. Kết quả, tại Hà Nội, hiện, toàn thành phố đã có 84.384 doanh nghiệp với trên 1,4 triệu lao động được giảm mức đóng vào Quỹ BHTN với số tiền giảm hơn 367 tỷ đồng trên Hệ thống quản lý thu và sổ thẻ; 1.207.881 NLĐ được nhận hỗ trợ tiền từ Quỹ BHTN với tổng số tiền hơn 2.900 tỷ đồng, đạt 74,3% số lao động thuộc nhóm nhận chính sách hỗ trợ. Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam Nguyễn Thế Mạnh làm việc với công ty Toto Tỉnh Bắc Giang đã giảm đóng vào Quỹ BHTN cho 3.519 doanh nghiệp, với tổng số tiền trên 165 tỷ đồng; giải quyết hỗ trợ từ Quỹ BHTN cho 182.023 NLĐ, với tổng số tiền là 412,5 tỷ đồng. Song song với đó, tỉnh Vĩnh Phúc đã giảm đóng vào Quỹ BHTN cho 3.473 đơn vị, với số tiền giảm tháng 10/2021 là 10,38 tỷ đồng. Toàn tỉnh đã giải quyết hưởng hỗ trợ cho 133.774 NLĐ với tổng số tiền hỗ trợ trên 315 tỷ đồng. Cùng với đó, tỉnh Hưng Yên thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp giảm mức đóng vào Quỹ BHTN với số tiền 125 tỷ đồng; chi trả hơn 373 tỷ đồng tiền hỗ trợ cho NLĐ theo Nghị quyết số116/NQ-CP. Riêng tỉnh Bắc Ninh đã thông báo giảm đóng BHTN đối với 5.876 doanh nghiệp, tương ứng với 375.872 NLĐ với số tiền tạm tính trên 289,66 tỷ đồng. Đồng thời, đã giải quyết hỗ trợ cho 281.633 NLĐ, tổng số tiền đã chi hỗ trợ cho NLĐ là hơn 634,36 tỷ đồng. Tỉnh Thái Nguyên đã giải quyết hỗ trợ cho 161.393/165.923 NLĐ với tổng số tiền trên 387 tỷ đồng. Cập nhật kết quả triển khai Nghị quyết số 116/NQ-CP và Quyết định số 28/2021/QĐ-TTg của BHXH 63 tỉnh, tính đến hết ngày 07/11/2021, BHXH các tỉnh, thành phố đã giải quyết hưởng hỗ trợ cho 10.068.967 NLĐ, trong đó có 9.414.354 lao động đang tham gia BHTN và 654.613 người đã dừng tham gia với tổng số tiền hỗ trợ là 23.965 tỷ đồng. Đại đa số được chi trả tiền hỗ trợ qua tài khoản cá nhân. Theo Quyết định số 28/2021/QĐ-TTg, việc hỗ trợ phải hoàn thành muộn nhất vào ngày 31/12/2021 với số tiền giải ngân dự kiến khoảng 30.000 tỷ, tốc độ giải ngân như hiện nay là đảm bảo tiến độ kế hoạch đã đề ra. Nỗ lực vượt qua khó khăn, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ năm 2021 Đặc biệt, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp tại địa bàn các tỉnh bị tác động mạnh nên công tác tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật BHXH, BHYT gặp không ít khó khăn. Tuy nhiên, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự chỉ đạo quyết liệt của BHXH Việt Nam, BHXH các tỉnh luôn bám sát chỉ tiêu, kế hoạch được giao, chủ động đề ra các giải pháp hiệu quả, nỗ lực triển khai công tác thu, phát triển người tham gia BHXH, BHYT nhất là chính sách BHXH tự nguyện; đồng thời, tích cực vận dụng cải cách, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH, BHYT…. Nổi bật, Hà Nội hiện có hơn 7,3 triệu người tham gia BHYT (đạt bao phủ 90,1% dân số); trên 1,8 triệu người tham gia BHXH bắt buộc; hơn 1,7 triệu người tham gia BHTN; 54.230 người tham gia BHXH tự nguyện. Bắc Giang, tính đến hết tháng 10, tổng số người tham gia BHXH của tỉnh là 356.884 người, trong đó, số tham gia BHXH tự nguyện là 26.365 người, tăng 7.554 người, tương ứng 40,8% so với cùng kỳ năm 2020. Tổng số người tham gia BHYT là 1.688.824 người, đạt 98,5% kế hoạch được giao. Tổng số thu BHXH, BHYT, BHTN đạt 74,5% kế hoạch. Bên cạnh đó, BHXH các tỉnh cũng tích cực, chủ động đẩy mạnh thực hiện hiệu quả công tác truyền thông; thanh tra, kiểm tra…. nhằm đảm bảo kịp thời quyền lợi chính đáng cho NLĐ, góp phần ngăn chặn các hành vi trốn đóng, nợ đọng BHXH, BHYT, BHTN. Đơn cử như tại tỉnh Bắc Giang, qua công tác thanh tra, kiểm tra đã thực hiện đôn đốc, thu hồi số tiền nợ BHXH, BHYT là 65,4 tỷ đồng; truy thu 2,5 tỷ đồng số tiền BHXH chưa đóng, đóng chưa đúng thời gian của 483 lao động; truy thu 241,8 triệu đồng số tiền BHXH do đóng chưa đúng mức lương của 1.518 lao động; thu hồi 90 triệu đồng do chi sai chế độ BHXH, BHYT. Kết quả: Hiện nay các đơn vị đã thực hiện nộp 44 tỷ đồng nợ BHXH, BHYT; 2,33 tỷ đồng trên tổng số tiền phải truy thu; 36,6 triệu đồng trên tổng số tiền phải thu hồi do chi sai các chế độ. BHXH tỉnh Quảng Ninh đã chủ động kiểm tra thường xuyên, định kỳ, đột xuất và phối hợp thanh tra liên ngành tại các đơn vị SDLĐ. Kết quả, số tiền nợ của các đơn vị trước thời điểm thanh tra là gần 3,4 tỷ đồng; sau thanh tra, số tiền nợ đã khắc phục gần 2,6 tỷ đồng. Trước tình hình đó, BHXH Việt Nam đã đưa ra những giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho BHXH các tỉnh, thành phố theo đặc thù của từng địa phương. Đồng thời, ghi nhận sự nỗ lực, cố gắng, quyết tâm của BHXH các tỉnh, thành phố đã vượt qua khó khăn, thực hiện hiệu quả các chỉ tiêu, nhiệm vụ được Chính phủ và ngành giao, góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Trong 2 tháng cuối năm 2021, nhằm phấn đấu hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, BHXH Việt Nam yêu cầu BHXH các tỉnh, thành phố cần linh hoạt hơn trong các giải pháp tăng thu, giảm nợ, phát triển người tham gia BHXH, BHYT, BHTN; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra dưới nhiều hình thức như gửi văn bản đôn đốc, cảnh báo, rà soát trên cơ sở dữ liệu điện tử, phối hợp liên ngành. Đối với các tỉnh, thành phố còn lại, cần bám sát Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ về việc ban hành Quy định tạm thời "Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19", xây dựng kịch bản thích ứng linh hoạt với tình hình ở địa phương, chú trọng truyền thông, tiếp cận, vận động trực tiếp người tham gia BHXH, BHYT; giao chỉ tiêu cụ thể cho từng đại lý, từng cán bộ, bảo đảm rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ kết quả. BHXH cũng yêu cầu, trong công tác truyền thông, vận động người tham gia, cần khẩn trương nghiên cứu Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ ban hành Quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19” để xây dựng các kịch bản phù hợp với từng vùng, từng cấp độ dịch; tập trung đẩy mạnh hình thức gọi điện thoại tư vấn trực tiếp, tổ chức hội nghị theo nhóm nhỏ, chú trọng hơn đến người dân vùng nông thôn… Về thực hiện chính sách hỗ trợ NLĐ từ Quỹ BHTN, cần tiếp tục truyền thông mạnh mẽ hơn nữa về chính sách này đến từng người dân, NLĐ, thậm chí có văn bản gửi đến từng xã, thôn xóm để huy động sự vào cuộc, hỗ trợ của các cấp để mọi NLĐ đủ điều kiện đều sớm được thụ hưởng gói hỗ trợ, từ đó góp phần giúp người dân thêm hiểu, tin tưởng và tiếp tục tham gia chính sách BHXH, BHYT. Hồng ThiếtPhân bổ 15,5 tỷ đồng hỗ trợ nhân dân các tỉnh phòng, chống dịch Covid-19
TĐKT - Ngày 8/11, thay mặt Ban Cứu trợ Trung ương, Phó Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam Trương Thị Ngọc Ánh đã ký các quyết phân bổ tổng số kinh phí 15,5 tỷ đồng hỗ trợ nhân dân tỉnh các tỉnh phòng, chống dịch Covid-19. Cụ thể, Ban Cứu trợ Trung ương quyết định phân bổ số tiền 12 tỷ đồng từ nguồn kinh phí vận động được cho công tác phòng, chống dịch Covid- 19 do Ban Thường trực UBTƯ MTTQ Việt Nam chủ trì vận động cho Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam các tỉnh: Hậu Giang, Trà Vinh, Cà Mau, Vĩnh Long, Tây Ninh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Tiền Giang, An Giang, Gia Lai, Quảng Ngãi, Kon Tum để triển khai hỗ trợ công tác phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh. Kinh phí Ban Cứu trợ Trung ương phân bổ hỗ trợ đối với mỗi tỉnh là 1 tỷ đồng. Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến tiếp nhận ủng hộ số tiền 1 tỷ đồng từ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Ban Cứu trợ Trung ương cũng quyết định phân bổ hỗ trợ nhân dân hai tỉnh Bạc Liêu, Bến Tre mỗi tỉnh 1,5 tỷ đồng từ nguồn kinh phí vận động phòng, chống dịch Covid-19 do Ban Thường trực UBTƯ MTTQ Việt Nam vận động được để hỗ trợ hai địa phương này triển khai công tác phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn. Cùng với việc phân bổ kinh phí hỗ trợ nhân dân các tỉnh phòng, chống dịch Covid-19, Ban Cứu trợ Trung ương cũng quyết định chuyển số tiền 500 triệu đồng từ nguồn tiền ủng hộ của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài thông qua Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài cho Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang) để triển khai công tác phòng, chống dịch Covid-19. Ban Cứu trợ Trung ương đề nghị các tỉnh, thành được phân bổ hỗ trợ chủ trì phối hợp với các cơ quan chức năng của địa phương triển khai thực hiện đảm bảo sử dụng kinh phí hỗ trợ công khai, minh bạch và theo đúng quy định của pháp luật. Kết thúc đợt hỗ trợ có báo cáo kết quả gửi về UBTƯ MTTQ Việt Nam. Trao tặng túi an sinh cho người gặp khó khăn bởi đại dịch COVID-19 tại tỉnh Bình Thuận Theo số liệu thống kê từ Tiểu ban Vận động và Huy động xã hội, tính từ ngày 1/5/2021 đến nay, tổng hợp sơ bộ của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Trung ương các tổ chức thành viên và Ủy ban MTTQ Việt Nam các tỉnh, thành phố; Quỹ Vắc xin phòng Covid-19, tổng số kinh phí và hiện vật đã vận động được là 21.248 tỷ đồng. Trong đó, qua hệ thống MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên là 12.453,1 tỷ đồng; qua Quỹ Vắc xin phòng Covid-19 là 8.795,2 tỷ đồng. Từ số kinh phí và hiện vật tiếp nhận được, đã phân bổ, hỗ trợ công tác phòng, chống dịch và chi mua vắc xin phòng Covid-19 là 18.003,9 tỷ đồng, chiếm 84,7 % so với tổng nguồn lực tiếp nhận. Trong đó, đã phân bổ 3.925.313 phần quà Đại đoàn kết và túi quà an sinh và hỗ trợ mua thiết bị vật tư y tế, hỗ trợ lượng tuyến đầu tham gia phòng, chống dịch,… với trị giá là 10.869,8 tỷ đồng; Quỹ Vắc xin phòng Covid-19 đã chi 7.134,1 tỷ đồng theo chỉ đạo của Chính phủ. Thời gian qua, Tiểu ban tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn, yêu cầu Ủy ban MTTQ Việt Nam các địa phương tập trung nắm tình hình người dân đi từ vùng dịch di chuyển trở về quê hương sau khi các địa phương ở phía Nam thực hiện nới lỏng giãn cách xã hội để có các giải pháp theo dõi, hỗ trợ người dân gặp khó khăn. Tiếp tục phân bổ kinh phí, nguồn lực đã vận động được cho công tác phòng, chống dịch và hỗ trợ nhân dân vượt qua khó khăn. Trung ương Hội Chữ thập đỏ Việt Nam ban hành Kế hoạch hỗ trợ lạo động ngoại tỉnh, lao động từ vùng dịch trở về địa phương mất thu nhập do dịch bệnh Covid-19. Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh ban hành Kế hoạch tổ chức các hoạt động hỗ trợ thanh niên, công nhân, người lao động quay trở lại làm việc tại khu công nghiệp, khu chế xuất. Tiểu ban tiếp tục tăng cường triển khai các hoạt động tuyên truyền trên Trang thông tin điện tử của Tiểu ban, Đài Truyền hình Việt Nam, các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí của Mặt trận và các tổ chức thành viên, đoàn thể để vận động tuyên truyền về công tác phòng chống dịch; vận động ủng hộ kinh phí, nguồn lực vật chất để hỗ trợ công tác phòng, chống dịch và hỗ trợ người dân gặp khó khăn; triển khai giải pháp vận động, quyên góp ủng hộ kinh phí phòng, chống Covid-19 trên nền tảng thanh toán trực tuyến như: Payoo, Ví điện tử MoMo, Zalo Pay… Tại các địa phương, Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên các cấp đang tập trung nắm tình hình nhân dân, tổ chức nhiều hoạt động cụ thể như: Phối hợp giúp đỡ, hỗ trợ người dân trở về quê từ các vùng dịch; phối hợp rà soát các đối tượng cần hỗ trợ an sinh xã hội; vận động ủng hộ và phân bổ kinh phí, vật chất; trao tặng túi quà an sinh cho các đối tượng gặp khó khăn, yếu thế; hỗ trợ vận chuyển, tiêu thụ nông sản; giám sát người trở về từ vùng dịch, tham gia các tổ phòng, chống dịch Covid-19 tại cộng đồng; thăm hỏi, tham gia hỗ trợ lực lượng tuyến đầu phòng, chống dịch với nhiều cách làm hay, mô hình hiệu quả. Thục AnhCông tác truyền thông là nhân tố “then chốt” trong phát triển người tham gia BHXH tự nguyện
TĐKT - Đại dịch Covid-19 đã tác động tiêu cực đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội và ảnh hưởng không nhỏ tới công tác vận động, phát triển người tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) của ngành BHXH Việt Nam. Trong bối cảnh đó, BHXH Việt Nam đã chủ động, nỗ lực vượt khó, thực hiện linh hoạt các giải pháp truyền thông, vận động, góp phần đảm bảo việc thực hiện mục tiêu “kép”, vừa mở rộng hiệu quả diện bao phủ người tham gia BHXH tự nguyện, vừa đảm bảo đúng các quy định về phòng, chống dịch Covid-19 với những kết quả tích cực. Qua đó cho thấy, công tác truyền thông, vận động người tham gia của ngành BHXH Việt Nam đang có hướng đi đúng và hiệu quả. Ông Đào Việt Ánh, Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam đã có những trao đổi về vấn đề này. Ông Đào Việt Ánh, Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Phóng viên: Chính sách BHXH tự nguyện đang được đánh giá là có sự phát triển vượt bậc, hai năm vừa qua, số lượng người tham gia BHXH tự nguyện tăng mạnh, gấp mấy lần so với hơn 10 năm trước đó. Để có được kết quả tích cực này, xin ông cho biết vai trò của công tác truyền thông đối với công tác phát triển người tham gia BHXH tự nguyện như thế nào? Ông Đào Việt Ánh: BHXH tự nguyện là chính sách an sinh xã hội mang tính nhân văn, tạo điều kiện cho người dân phi chính thức được tham gia vào lưới an sinh để khi hết tuổi lao động có cơ hội được hưởng lương hưu hàng tháng, được cấp thẻ BHYT miễn phí để đảm bảo cuộc sống và chăm sóc sức khỏe. Năm 2017 - trước thời điểm có Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách BHXH (Nghị quyết số 28), số người tham gia BHXH tự nguyện là hơn 200 nghìn người. Từ khi Nghị quyết số 28 được ban hành, số người tham gia BHXH tự nguyện không ngừng tăng, kể cả trong tình hình kinh tế - xã hội bị ảnh hưởng toàn diện bởi dịch Covid-19. Cụ thể, năm 2018 - năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết số 28 - toàn quốc đạt trên 277.000 người tham gia, tăng hơn 52.900 người (23,6%) so với năm 2017. Năm 2019, con số này đã tăng lên gần 574.000 người, tăng 296.700 người (107,1%) so với năm 2018, chiếm 1,17% so với lực lượng lao động trong độ tuổi lao động. Đến năm 2020, đã có trên 1,128 triệu người, tăng gấp 2 lần so với năm 2019, bằng cả 12 năm trước cộng lại, cao hơn 1,1% so với chỉ tiêu năm 2021 Nghị quyết số 28 đặt ra. Từ những kết quả tích cực trên, có thể thấy, nhờ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Đảng, Nhà nước cũng như sự vào cuộc chủ động, tích cực của cả hệ thống chính trị, cùng với sự nỗ lực cố gắng của đội ngũ công chức, viên chức, người lao động toàn ngành BHXH Việt Nam, trong đó công tác truyền thông chính sách BHXH giữ một vai trò rất quan trọng, đã góp phần đưa chính sách BHXH tự nguyện thực sự đi vào cuộc sống. Xác định công tác truyền thông là “chìa khóa” để thực hiện hiệu quả việc phát triển người tham gia BHXH, BHYT, thời gian qua, BHXH Việt Nam đã không ngừng đổi mới phương pháp, nội dung, hình thức truyền thông chính sách BHXH theo đúng tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách BHXH và Nghị quyết số 96/NQ-BCS ngày 24/8/2017 của Ban Cán sự Đảng BHXH Việt Nam về “Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác truyền thông BHXH, BHYT trong tình hình mới”. Theo đó, bám sát mục tiêu đổi mới toàn diện công tác truyền thông BHXH, các hoạt động truyền thông của ngành BHXH Việt Nam được triển khai chuyên nghiệp bài bản, linh hoạt, phối hợp thường xuyên, chặt chẽ với các bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan thông tấn, báo chí để kịp thời triển khai đồng bộ nhiều giải pháp đẩy mạnh truyền thông trên phạm vi toàn quốc. Về nội dung truyền thông đã được đổi mới rõ nét khi chuyển từ nội dung tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH tự nguyện sang nội dung truyền thông ngắn gọn, súc tích về quyền, lợi ích và giá trị nhân văn của chính sách với các thông điệp truyền thông gần gũi, dễ nhớ... Về hình thức, phương thức truyền thông đã vận dụng linh hoạt, đa dạng theo từng thời điểm, bối cảnh dịch như các hình thức truyền thông qua báo chí; truyền thông trực tuyến qua mạng xã hội; truyền thông trực tiếp qua các hội nghị tư vấn, các hoạt động truyền thông nhóm nhỏ… Có thể khẳng định, các hoạt động truyền thông chính sách BHXH của ngành BHXH Việt Nam những năm qua đã bám sát nội dung các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về BHXH tự nguyện. Qua đó, công tác truyền thông đã trở thành cầu nối để truyền tải, đưa các thông tin về chính sách BHXH tự nguyện đến với các tầng lớp nhân dân và người lao động; góp phần nâng cao nhận thức và sự chủ động của người dân, người lao động trong việc tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH tự nguyện; giúp người dân, người lao động nhận thức đầy đủ ý nghĩa, lợi ích của việc tham gia BHXH tự nguyện đối với bản thân và gia đình, từ đó tự giác tham gia như một nhu cầu tất yếu để đảm bảo cuộc sống và chăm sóc sức khỏe khi về già. Phóng viên: Để chính sách BHXH tự nguyện thực sự đi vào cuộc sống, ngành BHXH Việt Nam đã có những đột phá gì trong công tác truyền thông, thưa ông? Ông Đào Việt Ánh: Thực hiện Nghị quyết số 28 của Đảng và Quyết định số 1676/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ,có thể khẳng định, trong giai đoạn này, ngành BHXH Việt Nam đã có những giải pháp đổi mới mang tính bước ngoặt trong công tác truyền thông, kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn, cụ thể như sau: Thứ nhất, đổi mới về nội dung truyền thông. Căn cứ vào từng nội dung truyền thông cụ thể để chuyển từ nội dung tuyên truyền, phổ biến (trích dẫn các văn bản) sang nội dung truyền thông ngắn gọn, súc tích (xây dựng các thông điệp truyền thông gần gũi, dễ nhớ); bên cạnh nội dung phổ biến kiến thức, chế độ BHXH, BHYT, đẩy mạnh truyền thông về ý nghĩa, vai trò, lợi ích, tính nhân văn của chế độ BHXH, BHYT, đặc biệt là chế độ BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình. Tăng cường truyền thông về các gương người tốt, việc tốt, sáng kiến hay, hữu ích trong thụ hưởng và thực hiện các chính sách BHXH, BHYT, BHTN. Thứ hai, đổi mới về thời điểm truyền thông.Trong giai đoạn này, ngành BHXH Việt Nam tập trung đẩy mạnh truyền thông trước, trong, sau sự kiện/sự việc/chiến dịch truyền thông. Trước đây, chưa quan tâm đúng mức đến truyền thông trước sự kiện/sự việc để định hướng dư luận, cũng như truyền thông sau sự kiện, sự việc để thông tin về kết quả, ý nghĩa, sự lan tỏa của sự kiện, sự việc, chiến dịch truyền thông. Thứ ba, đổi mới về hình thức, kênh truyền thông. Đặc biệt trong giai đoạn này, linh hoạt ứng biến trước tình hình khó khăn do dịch Covid-19 tác động tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, tận dụng lợi thế của truyền thông trực tuyến, truyền thông hiện đại, ngành BHXH Việt Nam đã chủ động phối hợp với các cơ quan thông tấn, báo chí Trung ương và địa phương tăng cường công tác truyền thông qua kênh báo hình, báo nói và báo/tạp chí điện tử với số lượng, tần suất các tin, bài, phóng sự, chuyên mục tuyên truyền về BHXH, BHYT, BHTN ngày một tăng; đẩy mạnh việc sản xuất, đăng tải, phát sóng các thể loại báo chí hiện đại về BHXH, BHYT, BHTN như: Tọa đàm trực tuyến, bài Infographic, bài Megastory/ Longform/ Emagazine… góp phần tạo sức hút và lan tỏa các chính sách an sinh xã hội tới đông đảo độc giả, khán/ thính giả trên cả nước. Song song đó, ngành đã chủ động trong việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường truyền thông trực tuyến phù hợp với tình hình dịch Covid-19 tại từng địa phương và xu thế truyền thông hiện đại. Theo đó, ngành đã bắt đầu sản xuất và phát hành các Infographic, Motion graphics và video lan truyền để truyền thông về quyền lợi, lợi ích khi tham gia BHXH, BHYT, lan tỏa các thông điệp về tính nhân văn của chính sách BHXH, BHYT. Đây được coi là một dấu ấn đổi mới nổi bật trong công tác sản xuất, phát hành sản phẩm truyền thông của ngành, đáp ứng yêu cầu đổi mới công tác truyền thông theo tinh thần Nghị quyết số 28, cũng như xu thế truyền thông mới trong thời đại số. Đặc biệt, thời gian này, việc triển khai hình thức truyền thông trên mạng xã hội với các chương trình livestream tuyên truyền BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình của ngành được phát huy tối đa và hiệu quả trong bối cảnh dịch Covid-19 tác động phức tạp trên toàn quốc, các hoạt động truyền thông trực tiếp phải hạn chế, giảm thiểu. Đáng chú ý, năm 2020, trong bối cảnh công tác phát triển người tham gia của ngành còn gặp nhiều khó khăn bởi dịch Covid-19, việc ngành BHXH Việt Nam lần đầu tiên tổ chức thành công 2 lễ ra quân toàn quốc tuyên truyền, vận động người dân tham gia BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình đã cho thấy hiệu quả tích cực trong việc linh hoạt các giải pháp truyền thông phát triển người tham gia của ngành. Kết quả, sau các buổi lễ ra quân, bên cạnh số lượng người tham gia BHXH, BHYT phát triển được tăng kỷ lục, thì với việc lễ ra quân được tổ chức đồng bộ trên phạm vi toàn quốc, có sự tham dự của lãnh đạo UBND các tỉnh, thành phố; các đoàn diễu hành qua các tuyến phố, nơi đông người với các thông điệp truyền thông nêu bật được giá trị nhân văn của chính sách BHXH, BHYT đã tạo được dấu ấn vô cùng quan trọng, giúp người dân ngày càng hiểu sâu sắc hơn giá trị, lợi ích của BHXH, BHYT yên tâm, tin tưởng tham gia; góp phần củng cố, nâng cao niềm tin của Nhân dân vào chính sách BHXH, BHYT; đồng thời cũng đã củng cố, xây dựng được hình ảnh ngành BHXH Việt Nam hiện đại, chuyên nghiệp, vì sự hài lòng của nhân dân. Phóng viên: Xin ông chia sẻ cụ thể hơn về những kết quả đạt được trong công tác truyền thông thời gian qua? Ông Đào Việt Ánh:Có thể nói, thời gian qua, để thực hiện tốt chính sách BHXH, BHYT, BHTN, đặc biệt là chính sách BHXH tự nguyện, ngành BHXH Việt Nam luôn bám sát mục tiêu đổi mới toàn diện công tác truyền thông BHXH trên nguyên tắc truyền thông phải đảm bảo đúng và trúng nhóm người tiềm năng. Đồng thời, các hoạt động truyền thông của ngành BHXH Việt Nam luôn được quan tâm triển khai theo hướng chuyên nghiệp bài bản, linh hoạt, thân thiện, cụ thể như sau: Thứ nhất, công tác phối hợp truyền thông chính sách BHXH, BHYT, BHTN với các cơ quan thông tấn, báo chí đã có nhiều đổi mới, ngày càng đi vào chiều sâu và đạt được những kết quả tốt. Số lượng tin, bài, phóng sự, chương trình… được đăng tải/phát sóng về lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN tăng đều qua các năm (năm 2020 là 16.000; từ đầu năm 2021 đến nay là hơn 20.500). Trong đó có rất nhiều tin, bài, phóng sự, chương trình… phản ánh, làm rõ về lợi ích, tính ưu việt của chính sách BHXH tự nguyện giúp người dân, người lao động tự do hiểu và tích cực tham gia; nhiều phóng sự, bài viết được thể hiện sinh động qua các dạng bài báo chí hiện đại (Megastory/Emagazine, Infographic,…) đã giúp các sản phẩm truyền thông về BHXH, BHYT, BHTN trở nên hấp dẫn, thân thiện và dễ tiếp cận tới độc giả. Bên cạnh đó, các địa phương cũng đẩy mạnh truyền thông về chính sách BHXH tự nguyện qua hệ thống loa truyền thanh cơ sở, các cơ quan truyền thông, báo chí địa phương, trang tin điện tử của đơn vị. Thứ hai, công tác phối hợp với các bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội cũng ngày được mở rộng, phát huy hiệu quả quan trọng trong phát triển người tham gia BHXH tự nguyện. Năm 2020, qua công tác phối hợp này đã có khoảng 120 hội nghị, hội thảo, toạ đàm, tư vấn, đối thoại… truyền thông chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT được tổ chức, thu hút khoảng 24.000 lượt người tham dự. Trong đó, nhóm người truyền thông được hướng đến là nông dân, ngư dân, diêm dân, người lao động trong các làng nghề, xã viên hợp tác xã… Tại địa phương, BHXH các tỉnh, thành phố đã phối hợp với các sở ban, ngành và các đơn vị liên quan tổ chức các hội nghị truyền thông về BHXH tự nguyện theo nhóm nhỏ đến các cụm dân cư, hộ gia đình tùy tình hình dịch Covid-19; các lễ ra quân tuyên truyền, vận động người dân tham gia BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình. Trong năm 2020, toàn quốc đã tổ chức được trên 26.000 hội nghị truyền thông về BHXH, BHYT, BHTN thu hút khoảng 1,4 triệu tham gia. Sang năm 2021, hình thức này tiếp tục được tăng cường trong tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp hơn, từ đầu năm đến nay, BHXH các tỉnh tiếp tục phối hợp với các sở, ban, ngành, UBND các cấp, các đơn vị liên quan tổ chức khoảng: 16.000 hội nghị truyền thông, tư vấn, đối thoại... với khoảng 693.000 lượt người tham dự; 32.900 cuộc truyền thông nhóm nhỏ, với khoảng 250.900 lượt người tham dự (đây là một trong những hình thức truyền thông trực tiếp được đánh giá là mang lại hiệu quả cao, phù hợp với tình hình phòng, chống dịch Covid-19). Thứ ba, đẩy mạnh ứng dụng CNTT, tăng cường truyền thông trực tuyến phù hợp với tình hình dịch Covid-19 tại từng địa phương và xu thế truyền thông hiện đại. Theo đó, hình thức truyền thông trên mạng xã hội được chú trọng thực hiện với việc sản xuất, phát hành các sản phẩm truyền thông online (các sản phẩm báo chí hiện đại; các chương trình livestream tuyên truyền BHXH tự nguyện; các viral clip, motion graphic,...). Đến nay, tổng số kênh truyền thông mạng xã hội Fanpage Facebook, Zalo OA, Youtube của BHXH các tỉnh, thành phố và của cá nhân trong toàn ngành là 6.780 trang. BHXH các địa phương đã thực hiện 260 chương trình livestream tuyên truyền chính sách BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình trên Fanpage Facebook của tỉnh; đồng thời đã có trên 128.000 sản phẩm truyền thông (tin, bài, video, phóng sự,...) được đăng tải, chia sẻ trên trang Fanpage Facebook, Zalo OA, Youtube của BHXH các tỉnh và mạng xã hội của CCVC, NLĐ, (trong đó có trên 12.000 sản phẩm truyền thông được đăng tải chia sẻ trên trang Fanpage Facebook, Zalo OA, Youtube của đơn vị; trên 116.000 sản phẩm truyền thông được đăng tải, chia sẻ trên trang Facebook, Zalo, Youtube cá nhân CCVC). Đặc biệt, BHXH các địaphương đã đôn đốc, chỉ đạo cán bộ BHXH, nhân viên đại lý thu tích cực áp dụng hình thức tư vấn, đối thoại qua mạng xã hội (Facebook, Zalo,…), điện thoại, gặp gỡ truyền thông, vận động đến từng người dân, người lao động có nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện được kịp thời, thuận tiện. Nhờ những kết quả tích cực nêu trên, trong 10 tháng đầu năm 2021, tuy công tác phát triển người tham gia BHXH, BHYT của ngành gặp nhiều khó khăn do tác động của dịch Covid-19 nhưng tính đến ngày 21/10, toàn quốc đã có 1,206 triệu người tham gia BHXH tự nguyện, đạt 69% kế hoạch được giao, tăng 19.000 người so với tháng 8/2021, tăng 77.800 người so với cuối năm 2020 và tăng 361.000 người so với cùng kỳ năm trước. Những con số này tiếp tục khẳng định rõ nét vai trò “then chốt” của công tác truyền thông chính sách BHXH trong việc phát triển hiệu quả người tham gia BHXH tự nguyện thời gian qua. Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông! Hồng ThiếtLễ ký thỏa thuận phối hợp công tác giữa Bộ Tài chính và Bộ Thông tin và Truyền thông
TĐKT - Ngày 8/11, tại Hà Nội, Bộ Tài chính và Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức Lễ ký thỏa thuận phối hợp công tác, nhằm tăng cường mối quan hệ gắn kết, hợp tác; nâng cao chất lượng, công tác phối hợp, phát huy vai trò, thế mạnh và nguồn lực sẵn có của Bộ Tài chính và Bộ Thông tin và Truyền thông vì sự phát triển chung. Đồng thời, nhằm thống nhất chỉ đạo, xây dựng cơ chế phối hợp thường xuyên giữa các đơn vị chức năng của hai Bộ trong công tác quản lý nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi trong triển khai các nhiệm vụ của hai Bộ. Theo thỏa thuận được ký kết, Bộ Tài chính đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp, hỗ trợ đối với 4 nhóm công việc, gồm: Phối hợp trong công tác quản lý đối với các nền tảng số và các chủ thể cung cấp dịch vụ, sản phẩm trên các nền tảng số trong nước và xuyên biên giới; phối hợp, hỗ trợ và hướng dẫn việc thực hiện các dự án/nhiệm vụ chuyển đổi số, phát triển Chính phủ số và quản lý, thực hiện hoạt động đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin ngành tài chính; phối hợp trong công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng cho các hệ thống công nghệ thông tin ngành tài chính; phối hợp tổ chức thông tin tuyên truyền, phổ biến sâu rộng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tài chính, thuế, hải quan, kho bạc nhà nước, chứng khoán nhà nước. Lãnh đạo Bộ Tài chính và Bộ Thông tin và Truyền thông ký thỏa thuận phối hợp công tác Bộ Tài chính sẽ phối hợp, hỗ trợ Bộ Thông tin và Truyền thông trong công tác huy động nguồn lực phục vụ chuyển đổi số, phát triển Chính phủ số; phối hợp trong công tác quản lý kê khai, nộp thuế và các khoản thu khác vào ngân sách Nhà nước đối với hoạt động viễn thông. Thỏa thuận phối hợp công tác đã bao quát một số công việc trọng tâm liên quan cả hai ngành Tài chính và ngành Thông tin Truyền thông, nhằm thực hiện chương trình chuyển đổi số quốc gia theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Hồng ThiếtCăn cứ vào cấp độ dịch, các địa phương có kế hoạch cho trẻ đi học cụ thể
TĐKT - Chiều 8/11, tại Hà Nội, Bộ Y tế và Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã phối hợp tổ chức Hội nghị trực tuyến bảo đảm an toàn phòng, chống dịch COVID-19 trong các cơ sở giáo dục. Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên và Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Ngô Thị Minh chủ trì hội nghị. Theo báo cáo của Bộ GD&ĐT, hiện nay có 28 tỉnh, thành phố trong cả nước đang tổ chức cho học sinh học trực tiếp trên địa bàn toàn tỉnh; 35 tỉnh, thành dạy học trực tuyến và qua truyền hình; nhiều địa phương lên kế hoạch mở cửa trường học trở lại tại các quận, huyện vùng xanh từ 15/11. Tuy nhiên, với việc phát sinh các ổ dịch mới liên quan đến trường học, kế hoạch cho học sinh đi học trở lại phải có nhiều điều chỉnh. Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên và Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Ngô Thị Minh chủ trìhội nghị trực tuyến bảo đảm an toàn phòng, chống dịch COVID-19 trong các cơ sở giáo dục Theo Đại diện Vụ Giáo dục Thể chất, Bộ GD&ĐT dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp tại một số địa phương, trong đó có nguyên nhân lây lan từ những người trở về từ vùng dịch. Đã xuất hiện một số ổ dịch lây lan trong trường học khi tổ chức các hoạt động giáo dục trực tiếp dẫn đến một số địa phương phải chuyển đổi kế hoạch, chuyển sang dạy học trực tuyến khi phát sinh dịch. Kế hoạch mở cửa trở lại ở các địa bàn vùng xanh phải điều chỉnh vì tỉnh, thành phát sinh nhiều ca nhiễm cộng đồng. Việc chưa thống nhất phương án, kịch bản xử lý khi phát hiện ca F0 trong trường học, dẫn đến phong tỏa, ngừng hoạt động giáo dục trực tiếp trên diện rộng, ảnh hưởng đến kế hoạch và chất lượng giáo dục. Việc tiêm vacine phòng COVID-19 cho đội ngũ cán bộ, nhà giáo, nhân viên ngành giáo dục và học sinh từ 12 - 17 tuổi, được địa phương tăng cường triển khai, nhưng thực tế tỷ lệ cán bộ, nhà giáo, nhân viên trường học được tiêm đủ liều vaccine còn thấp, trung bình toàn quốc mới đạt khoảng 62%. Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Ngô Thị Minh cho biết việc rà soát văn bản, quy định tiêu chí đảm bảo an toàn trường học, ký túc xá được đặt ra để đưa các em sớm trở lại trường học. Nơi nào đã ở cấp độ dịch 1, 2 thì cần tạo mọi điều kiện cho học sinh đi học trực tiếp, kể cả mầm non. Hiện nay, việc đưa học sinh vùng 1, vùng 2 trở lại trường hiện gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, một số địa phương còn băn khoăn khi chưa thống nhất thực hiện biện pháp đảm bảo giãn cách trong nhà trường, tổ chức các hoạt động tập thể trong nhà trường, tổ chức cho học sinh ăn bán trú, việc đeo khẩu trang của giáo viên, trẻ em mầm non, học sinh khi thực hiện các hoạt động giáo dục trong nhà trường... Các địa phương đề nghị có hướng dẫn cụ thể về việc đeo khẩu trang trong trường học, nhất là lứa tuổi tiểu học - trẻ còn nhỏ. Chẳng hạn, Quảng Ninh hiện yêu cầu tất cả học sinh, giáo viên đeo khẩu trang toàn thời gian (trừ lúc ăn, lúc ngủ bán trú) khi ở trường học trừ khối mầm non... Về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên cho biết thế giới cũng như Việt Nam đã trải qua đợt dịch thứ 4, đợt dịch này ảnh hưởng rất sâu, toàn diện các lĩnh vực: Kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế… Hiện nay, tỷ lệ bao phủ vaccine tại nước ta tương đối lớn, đạt 75% cho đối tượng từ 18 tuổi trở lên trên toàn quốc, đặc biệt các tỉnh miền Nam độ bao phủ còn cao hơn nữa. Nhận định của WHO, các nước cho thấy tình hình dịch trong năm 2021 và 2022 vẫn diễn biến phức tạp, chưa thể kết thúc, chưa thể dự báo thời gian tới có xuất hiện biến chủng mới không. Các nước bắt đầu thay đổi biện pháp phòng, chống dịch, từ chỗ quyết tâm không có virus giờ chuyển sang đáp ứng với thời kỳ mới. Từ đó, căn cứ vào tình hình dịch trên thế giới, trong nước, đặc biệt là kết quả tiêm vaccine, Chính phủ ban hành Nghị quyết 128. Nguyên tắc là thích ứng an toàn, linh hoạt và hiệu quả trong công tác kiểm soát dịch, không cứng nhắc như trước. Tương tự với vấn đề giáo dục, hiện nay, thống kê đến tháng 9 có 105/134 quốc gia đã mở cửa các trường học trở lại. Theo Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên, căn cứ vào cấp độ dịch (cấp tỉnh, huyện, xã) mà các địa phương có kế hoạch cho trẻ đi học cụ thể. Trong một huyện có thể xã này đi học trực tiếp, xã kia học trực tuyến. Về vấn đề trẻ đi học có cần đeo khẩu trang, có cần đảm bảo khoảng cách, Bộ GD&ĐT đã có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Cụ thể, trẻ đi học không cần đeo khẩu trang trong lớp học hay không áp dụng giãn cách trong lớp học, nhưng hạn chế việc tiếp xúc giữa học sinh trong lớp với nhau. Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên lưu ý từng trường xây dựng phương án, kịch bản xử lý khi trường học có 1 học sinh hoặc giáo viên F0, phương án này cũng phải được ban chỉ đạo cấp huyện duyệt. Khi trường có F0 thì khoanh vùng ngay lập tức, sàng lọc, F1 cách ly tại nhà hoặc tập trung, phong tỏa lớp học hoặc tầng học, tòa nhà đó. Sau đó, phun trùng khử khuẩn. Sau 24h khử khuẩn có thể đưa học sinh, giáo viên lớp khác vào lớp học đó học. Đó là thích ứng an toàn, hiệu quả. Địa bàn thuộc cấp độ dịch 1 và 2, cần tạo điều kiện tốt nhất cho học sinh, kể cả trẻ mầm non được đi học trực tiếp. Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên, cần nâng cao vai trò trách nghiệm của các tổ chức chính quyền địa phương trong việc chỉ đạo và rà soát, kiện toàn ban chỉ đạo phòng, chống dịch từng trường; hiệu trưởng phải làm trưởng ban chỉ đạo. Các địa phương phải triển khai tập huấn về công tác phòng, chống dịch cho cán bộ y tế học đường, đặc biệt là cán bộ y tế thuộc trường ngoài công lập về phòng, chống dịch COVID-19 trong thời điểm hiện nay. Để học sinh được trở lại trường học tập an toàn theo từng cấp độ dịch, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Ngô Thị Minh đề nghị địa phương thực hiện mạnh mẽ hơn nữa chủ trương "thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19" theo Nghị quyết 128. Những địa bàn thuộc cấp độ dịch 1 và 2, địa phương cần tạo điều kiện tốt nhất cho học sinh, kể cả trẻ mầm non được đi học trực tiếp. Khi học sinh quay trở lại trường học thì phải làm thế nào để đảm bảo an toàn nhất cho các em. Trẻ đến trường phải được an toàn và được hỗ trợ để thích ứng môi trường học tập mới sau nhiều tháng dài dạy học trực tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe tâm lý học sinh. La GiangNâng cao văn hóa pháp luật để xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
Văn hóa pháp luật - một trong những hình thái của văn hoá, có vai trò đặc biệt quan trọng trong thực hiện chiến lược xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện - trụ cột cơ bản của nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc. Đại hội XIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ chiến lược xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA PHÁP LUẬT Văn hóa pháp luật là một trong những loại hình của văn hóa xã hội; là “tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà con người sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật được ban hành trong các thời kỳ lịch sử, những tư tưởng, quan điểm, luận điểm, nguyên lý, nguyên tắc, những tác phẩm văn hóa pháp luật, những kinh nghiệm và thói quen tích lũy được trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật”(1). Từ góc độ cấu trúc hệ thống, văn hóa pháp luật được cấu thành từ các thành tố cơ bản là: ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật, các thiết chế pháp luật, các phương tiện pháp luật; hành vi, lối sống pháp luật, trình độ sử dụng pháp luật. Đồng thời, từ phương diện ứng dụng trong thực tiễn đời sống nhà nước, pháp luật, văn hóa pháp luật là khái niệm chỉ một trạng thái tốt, trạng thái có chất lượng của đời sống pháp luật quốc gia, được thể hiện ở trình độ nhất định đạt được về sự hoàn thiện pháp luật, về ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật của mọi cá nhân. Quan điểm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đã được xác định trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là “Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”(2). Hiện nay Chính phủ đang triển khai xây dựng dự thảo Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về phát triển con người toàn diện. Theo đó, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người, xây dựng con người văn hóa, phát triển toàn diện, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh là một trong những quan điểm chủ đạo trong tổng thể nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, giàu lòng yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, đoàn kết, cần cù sáng tạo là góp phần kiến tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Văn kiện Đại hội XIII cũng đã xác định rõ hơn yêu cầu về xây dựng “hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người” gắn với giữ gìn, phát triển “hệ giá trị gia đình Việt Nam” trong thời kỳ mới. Theo đó, bên cạnh các giá trị cốt lõi cần hướng tới như Công bằng, Quyền/quyền lợi Bình đẳng, Tự do, Khoan dung, Dân chủ; Hòa bình; Dân chủ; Tuân thủ pháp luật; trách nhiệm xã hội(3), hệ giá trị Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền, dân chủ, hội nhập cũng cần hội tụ những giá trị cơ bản: Yêu nước; Nhân ái; Nghĩa tình; Trung thực; Sáng tạo; Dân chủ; Pháp quyền; Bản lĩnh; Trách nhiệm và Hợp tác, bảo vệ môi trường. Nội dung cơ bản về xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải bao gồm cả “xây”những phẩm chất tốt đẹp, “chống”những biểu hiện sai trái về đạo đức, pháp luật và “khắc phục” những hạn chế, yếu kém trong nhận thức, hành vi của con người Việt Nam. Việc xây dựng con người phát triển toàn diện chính là nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển đất nước trong điều kiện hội nhập quốc tế, phát triển bền vững. Bởi, con người muốn phát triển toàn diện thì cần phải có những phẩm chất chính trị, đạo đức, pháp lý, khoa học, kỹ thuật, có năng lực sáng tạo tốt, có ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật, yêu nước, tự hào dân tộc, có lối sống văn hóa. Đồng thời nhận diện rõ và khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng, xuống cấp về đạo đức, vi phạm pháp luật, coi thường kỷ cương xã hội, tha hóa về lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tăng cường việc kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật. Để thực hiện được các nhiệm vụ nêu trên, có rất nhiều công việc, giải pháp phải thực hiện đồng bộ, trong đó, xây dựng văn hoá pháp luật một cách bền vững có vai trò đặc biệt quan trọng cả trên phương diện xây dựng và thực thi pháp luật trong cuộc sống. Vai trò giáo dục của văn hóa pháp luật thể hiện ở sự định hướng cho các thành viên xã hội lựa chọn cách xử sự hợp lý để tránh xung đột với các cá nhân khác, cách giải quyết hài hòa các lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân mà không vi phạm pháp luật. Văn hoá pháp luật góp phần tích cực trong việc điều tiết ý thức, hành vi, chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực pháp luật không chỉ trong các mối quan hệ của con người với nhau mà cả trong quan hệ của con người với môi trường thiên nhiên, định hướng con người đến những giá trị cốt lõi Chân - Thiện - Mỹ - Ích. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN VỀ VĂN HÓA PHÁP LUẬT Để xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp văn hoá, kinh tế, chính trị, pháp lý. Từ phương diện pháp lý, xin được đề cập một số giải pháp về văn hoá pháp luật góp phần thực hiện chiến lược xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Một là, kết hợp giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức, lối sống tuân theo pháp luật và phù hợp đạo đức xã hội. Giáo dục đạo đức kết hợp giáo dục pháp luật là điều kiện không thể thiếu được để hình thành hành vi hợp pháp và hợp đạo đức, hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật. Giáo dục pháp luật hướng vào việc hình thành, nâng cao thái độ, tình cảm tôn trọng pháp luật, niềm tin của con người vào pháp luật, tôn trọng quyền, tự do, lợi ích chính đáng của con người, ý thức trách nhiệm đối với người khác, cộng đồng và xã hội. Giáo dục pháp luật còn giúp công dân biết đánh giá các hiện tượng pháp lý: tính đúng đắn hay không của một quyết định toà án, một quyết định hành chính; tích cực tham gia góp ý kiến xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật. Làm sao cho việc phòng, chống, việc xử phạt cái ác, khuyến khích, bảo vệ cái thiện phải được thể hiện rõ nét hơn trong pháp luật và thực thi pháp luật. Đó chính là cách tốt nhất để phát huy tác động tích cực giữa pháp luật và đạo đức, đồng thời là cách tốt nhất để vừa “thượng tôn pháp luật, vừa thực hành đạo đức” trong cuộc sống hiện đại. Không chỉ dừng lại ở những chế tài pháp luật mà phải “gõ cửa”, “đánh thức” lương tâm mỗi con người để họ thận trọng hơn, có trách nhiệm hơn về mỗi hành vi của mình. Do đó, cần tạo dư luận xã hội để lên án những hành vi vi phạm đạo đức và pháp luật. Đồng thời, ủng hộ, khuyến khích, tạo điều kiện cho những hành vi hợp pháp, hợp đạo đức. Xây dựng, phát triển văn hóa pháp luật để vừa bảo vệ được đạo đức, vừa tạo điều kiện xoá bỏ những quan điểm phản tiến bộ; thúc đẩy hình thành những quan điểm, chuẩn mực đạo đức mới, tiến bộ. Hai là, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật, đảm bảo tiếp cận pháp luật, kỹ năng thực hành pháp luật. Một trong những nội dung cần đổi mới trong phổ biến, giáo dục pháp luật chính là sự kết hợp phổ biến, giáo dục về kiến thức pháp luật với những kỹ năng cần thiết trong thực hiện pháp luật. Sự hiểu biết pháp luật là cơ sở để mỗi cá nhân hình thành ý thức tôn trọng và lối sống tuân theo pháp luật. Đưa các yếu tố pháp luật, kỹ năng thực hành pháp luật vào trong giáo dục đạo đức và ngược lại; phát triển các loại hình dịch vụ pháp lý, góp phần giảm thiểu những rủi ro pháp lý và nâng cao an toàn pháp lý cho các cá nhân, tổ chức trong các quan hệ xã hội, hoạt động xã hội. Phổ biến, giáo dục pháp luật có vai trò to lớn tác động đến ý thức và hành vi hợp pháp của các cá nhân. Luật pháp muốn hiệu lực hiệu quả thì ngoài sức mạnh của công quyền và những “nguyên tắc, điều luật, thiết chế” thì còn cần huy động cả sức mạnh của tư tưởng và tinh thần, để pháp luật phải được con người nhận thức như là cái cần thiết và có cơ sở, phải tạo niềm tin và sự tôn trọng đối với pháp luật. Tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải sát thực, phù hợp với các nhóm đối tượng xã hội trong các lĩnh vực quan hệ xã hội. Ba là, giáo dục ý thức về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của con người. Trong nội dung giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cần trang bị kiến thức, kỹ năng thực hành văn hóa quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm con người. Văn hóa quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm con người là một thể thống nhất bao gồm các thành tố cơ bản là: sự hiểu biết - kiến thức cơ bản về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm đạo đức, pháp lý của con người, ý thức tôn trọng quyền con người, tôn trọng các giá trị, chuẩn mực đạo đức; kỹ năng sử dụng, bảo vệ các quyền con người, thực hiện nghĩa vụ cơ bản, nghĩa vụ cụ thể theo quy định pháp luật. Để xây dựng con người phát triển toàn diện, cần thiết phải xây dựng văn hoá quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm con người. Con người phát triển toàn diện trước hết phải là con người hiểu biết các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm trước cộng đồng, xã hội; tôn trọng, tuân thủ pháp luật thành thói quen, ứng xử văn hoá trong mọi hoạt động xã hội của bản thân mình. Có một thực tế là, khi thực hành các quyền, tự do của mình, cá nhân rất dễ rơi vào trạng thái có nguy cơ lạm dụng, lợi dụng, vượt quá giới hạn và tràn sang miền cấm của pháp luật và đạo đức xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến quyền, lợi ích của những người khác và xã hội. Trên thực tế, chúng ta thấy vẫn còn sự sai lệch cả trong nhận thức và hành vi, thực hành về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm con người. Như một tất yếu, cuộc sống càng hiện đại, khoảng không tự do càng rộng thì lại càng cần đến ý thức và thực hành trách nhiệm - bổn phận cá nhân đối với những người xung quanh, cộng đồng và xã hội. Chẳng hạn, trong cuộc chiến phòng chống đại dịch COVID-19, vấn đề trách nhiệm cá nhân con người có tầm quan trọng đặc biệt. Không chỉ quyền, tự do, không chỉ một nghĩa vụ cụ thể mà cao hơn, bền vững hơn là trách nhiệm đạo đức, pháp lý con người đối với sự an toàn và công bằng trong xã hội. Văn hoá nói chung, văn hoá quyền con người, văn hoá nghĩa vụ, trách nhiệm con người không chỉ là những hành vi nhất thời, hình thức mà phải trở thành những thói quen ứng xử, là nhận thức và hành vi thực tế của mỗi con người trong mọi không gian, thời gian, lĩnh vực, địa bàn; phải được nhận thức, thực hành thường xuyên, mọi nơi, mọi thời điểm, trong mọi hoạt động, đặc biệt là trong hoạt động của các cơ quan công quyền, cá nhân công quyền chứ không chỉ là những khẩu hiệu, báo cáo... Giáo dục quyền con người nhằm trang bị cho con người những kiến thức cần thiết về quyền con người, cơ chế bảo vệ quyền con người, kỹ năng thực hành quyền con người, tạo lập ý thức, thói quen tôn trọng, bảo vệ quyền con người phù hợp với các nguyên tắc pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia về quyền con người. Tạo lập một cách bền vững văn hóa quyền con người, văn hóa nghĩa vụ, trách nhiệm con người cũng chính là tiền đề, điều kiện đảm bảo thực hiện mục tiêu xây dựng con người phát triển toàn diện trong bối cảnh hiện nay. Bốn là, xây dựng văn hóa pháp luật đối với đội ngũ cán bộ, công chức. Văn hóa pháp luật của cán bộ, viên chức, công chức nhà nước như một tất yếu có ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa pháp luật của các cá nhân trong đó có việc tạo lập niềm tin vào công lý và pháp luật - một trong những điều kiện cơ bản đảm bảo ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật. Đối với đội ngũ cán bộ, viên chức, công chức, trình độ văn hoá pháp luật phải được thể hiện, đo lường thông qua các tiêu chí cơ bản: trình độ hiểu biết pháp luật, bản lĩnh và kỹ năng áp dụng, thi hành pháp luật, ý thức, hành vi tôn trọng, tuân thủ pháp luật, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của con người. Xây dựng văn hóa công vụ để hình thành một cách bền vững ý thức trách nhiệm đạo đức công vụ, tính chuyên nghiệp, tôn trọng, tuân thủ pháp luật thực hiện đúng, đầy đủ quyền hạn, nghĩa vụ, nhiệm vụ được giao một cách trung thực, tận tuỵ, mẫn cán, cẩn trọng, tránh xung đột lợi ích, không vụ lợi cá nhân và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện. Sự tận tụy, nhiệt tình, chuyên nghiệp, thận trọng, công tâm, có trách nhiệm với con người và tổ chức, với công việc hàng ngày trong hoạt động công vụ là điều kiện cơ bản để tạo lập, vận hành nền công vụ phục vụ xã hội hiệu lực và hiệu quả. Nội dung của xây dựng văn hóa công vụ bao hàm cả giáo dục liêm chính. Cần đưa nội dung giáo dục liêm chính vào trong giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật, giáo dục quyền con người theo cách mới, gắn với chế độ công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, phòng chống tham nhũng. Năm là, đảm bảo công bằng, nghiêm minh, kịp thời trong thi hành, áp dụng pháp luật, xây dựng niềm tin pháp luật. Tình trạng pháp luật không được thực hiện, hay thực hiện không nghiêm minh, không kịp thời, không minh bạch, công bằng trong thực thi pháp luật của các cơ quan công quyền sẽ dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực đối với ý thức và hành vi hợp pháp luật của con người. Việc thiếu niềm tin vào tính công bằng, bình đẳng và nghiêm minh của pháp luật là một trong những yếu tố làm tăng thêm chi phí tổ chức thực hiện của pháp luật(4). Max Weber đã từng nhấn mạnh rằng, một Nhà nước có hưng thịnh hay không tuỳ thuộc vào việc những đạo luật do Nhà nước ban hành có được tuân thủ hay không(5). Sáu là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo cân bằng các loại lợi ích, đơn giản,minh bạch, nhất quán, thống nhất, ổn định. Tính ổn định tương đối, phù hợp cuộc sống, công khai, minh bạch của pháp luật và việc thực thi pháp luật nghiêm minh, công bằng, kịp thời sẽ là một trong những điều kiện cơ bản để tạo dựng môi trường pháp lý lành mạnh, hiệu quả. Tình trạng tần suất cao về sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ văn bản pháp luật, quy định pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo nhau, vi phạm nguyên tắc tính tối cao của Hiến pháp và Luật là những lực cản lớn cho việc thực thi pháp luật, dẫn đến tâm lý coi thường, mất niềm tin vào pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho những chuỗi vi phạm pháp luật ngoài vòng xử lý. Các chế tài pháp luật cần đủ độ răn đe và phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả của các hành vi vi phạm pháp luật là một trong những điều kiện cơ bản đảm bảo thực hiện các hành vi hợp pháp, giảm thiểu vi phạm pháp luật. Các chế tài nghiêm minh và những biện pháp kiểm soát chặt chẽ việc thực thi là điều kiện quan trọng có tác động mạnh mẽ đến ý thức và hành vi hợp pháp của con người. Bảy là, xây dựng tính tích cực pháp luật, tạo lập dư luận xã hội lên án những biểu hiện coi thường pháp luật, vi phạm pháp luật; hỗ trợ, tôn vinh những hành vi hợp pháp, có văn hóa pháp luật. Cần tạo lập tính tích cực pháp lý, gia tăng mức độ xã hội hóa pháp luật của các cá nhân, không chỉ có tuân thủ pháp luật mà còn tích cực tham gia vào việc xây dựng chính sách, pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống. Tạo lập dư luận xã hội chính là một trong những biện pháp mạnh mẽ để đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật, khuyến khích, hỗ trợ các hành vi hợp pháp, đặc biệt là trong một số lĩnh vực như giao thông, sản xuất, kinh doanh các mặt hàng lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh.../. GS. TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ TS. LÊ THỊ PHƯƠNG NGA Đại học Quốc gia Hà Nội __________________________ (1) Lê Minh Tâm: Vấn đề văn hóa pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Luật học, số 5/1998. (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tr.143. (3) Phạm Huy Đức: Xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 14/6/2021. (4) Nguyễn Sĩ Dũng: Việc tổ chức thực hiện pháp luật trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 10/2010. (5) Dẫn theo: Ulrich Karpen, Những điều kiện bảo đảm hiệu quả của Nhà nước pháp quyền, đặc biệt ở các nước đang phát triển và các nước mới công nghiệp hoá, trong Josef Thesing (chủ biên): Nhà nước pháp quyền, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2002, tr. 335-379. Theo tuyengiao.vnTĐKT - Bộ Y tế thông tin về Chương trình thí điểm điều trị có kiểm soát thuốc molnupiravir cho các trường hợp mắc COVID-19 thể nhẹ do Bộ Y tế triển khai.
Trong bối cảnh tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp tại TP Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành phố, Bộ Y tế đã triển khai Chương trình thí điểm điều trị sử dụng thuốc kháng virus molnupiravir có kiểm soát cho các trường hợp mắc COVID-19 thể nhẹ, thể không triệu chứng điều trị tại các cơ sở y tế, khu cách ly, khu thu dung điều trị và tại nhà.
Chương trình thí điểm điều trị có kiểm soát thuốc molnupiravir
Mục tiêu của Chương trình là các trường hợp mắc COVID-19 thể nhẹ, thể không triệu chứng được tiếp cận thuốc an toàn, hiệu quả, nhanh chóng, chủ động, từ đó góp phần giảm chuyển nặng, giảm tử vong, giảm tải điều trị và đặc biệt là giảm lây nhiễm ngoài cộng đồng.
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng thuốc molnupiravir trong điều trị COVID-19 đã công bố trên thế giới cho kết quả khả quan về tính an toàn, khả năng dung nạp, đặc biệt giảm tải lượng virus rõ rệt ở bệnh nhân thể nhẹ và vừa sau 5 ngày điều trị, giảm tỷ lệ nhập viện, giảm tử vong; căn cứ kết quả đánh giá giữa kỳ của các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng quy mô nhỏ và vừa tiến hành tại Bệnh viện Thống Nhất, Bệnh viện Phổi Trung ương cho thấy tính an toàn và hiệu quả thuốc, Bộ Y tế đã cho phép triển khai Chương trình sử dụng thuốc có kiểm soát molnupiravir cho các trường hợp mắc COVID-19 thể nhẹ tại nhà và cộng đồng tại TP Hồ Chí Minh từ giữa tháng 8/2021 và hiện nay đã mở rộng triển khai tại 22 địa phương có dịch trong toàn quốc. Việc triển khai Chương trình tuân thủ các đề cương nghiên cứu khoa học, chặt chẽ đã được Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Quốc gia thẩm định, chấp thuận và được Bộ Y tế phê duyệt và được theo dõi, kiểm soát, ghi nhận, đánh giá và tổng kết bởi các chuyên gia, cán bộ, nhân viên y tế.
Các kết quả báo cáo giữa kỳ của Chương trình tại 22 tỉnh/thành phố cho thấy thuốc có tính an toàn cao, dung nạp tốt, hiệu quả rõ rệt về giảm tải lượng virus, giảm lây lan, giảm chuyển nặng, rút ngắn thời gian điều trị với tỷ lệ bệnh nhân có kết quả RT-PCR sau 5 ngày âm tính hoặc dương tính với giá trị CT ≥ 30 từ 72,1% đến 99,1%; tỷ lệ bệnh nhân có kết quả xét nghiệm RT-PCR sau 14 ngày âm tính hoặc dương tính với giá trị CT ≥ 30 gần 100%; tỷ lệ chuyển nặng rất thấp từ 0,02% - 0,06% và không có ca nào dẫn đến tử vong. Các kết quả rất khả quan của Chương trình đã đóng góp hiệu quả vào công tác phòng, chống dịch của TP Hồ Chí Minh và các địa phương có dịch.
Trong thời gian tới, Bộ Y tế sẽ tiếp tục hỗ trợ các địa phương có dịch tham gia và triển khai Chương trình trên tinh thần tiếp cận sớm với thuốc song vẫn phải kiểm soát, theo dõi chặt chẽ để bảo đảm an toàn cho các bệnh nhân tham gia Chương trình.
Hồng Thiết
Trang
- « đầu tiên
- ‹ trước
- …
- 74
- 75
- 76
- 77
- 78
- …
- sau ›
- cuối cùng »