Chuyên đề

Thông tư Số: 22/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính

Ngày 16/2/2016,  Bộ Tài chính đã có Thông tư Số: 22/2016/TT-BTC  quy định Quy tắc, điều khoản, biều phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Thông tư bao gồm các nội dung cụ thể sau:   Căn cứ Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 9 năm 2008 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; Căn cứ Nghị định số 214/2013/NĐ-CP ngày 20 tháng 12 năm 2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16  tháng 9 năm 2008 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; Căn cứ Nghị định số 215/2013/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính; Theo đề nghị của Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm; Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Thông tư quy định Quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.   Chương  I QUY ĐỊNH CHUNG   Điều 1. Phạm vi điều chỉnh Thông tư này quy định Quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Điều 2. Đối tượng áp dụng 1.   Chủ xe cơ giới tham gia giao thông trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2.   Doanh nghiệp bảo hiểm được phép triển khai bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo quy định của pháp luật. 3.   Các tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Điều 3. Giải thích từ ngữ 1.    “Doanh nghiệp bảo hiểm” là doanh nghiệp được thành lập và  hoạt động kinh doanh bảo hiểm hợp pháp tại Việt Nam và được phép triển khai bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. 2.   “Chủ xe cơ giới” (tổ chức, cá nhân) là chủ sở hữu xe cơ giới hoặc được chủ sở hữu xe cơ giới giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp, điều khiển xe cơ giới. 3.  “Xe cơ giới” bao gồm xe ô tô, máy kéo, xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng (kể cả rơ-moóc và sơ mi rơ-moóc được kéo bởi xe ô tô hoặc máy kéo), xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe cơ giới tương tự (kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật) có tham gia giao thông. 4.   “Hành khách” là người được chở trên xe theo hợp đồng vận chuyển hành khách thuộc các hình thức quy định trong Bộ luật Dân sự. 5.   “Bên thứ ba” là người bị thiệt hại về thân thể, tính mạng, tài sản do xe cơ giới gây ra, trừ những người sau: a)   Lái xe, phụ xe trên chính chiếc xe đó. b)  Người trên xe và hành khách trên chính chiếc xe đó. c)   Chủ sở hữu xe trừ trường hợp chủ sở hữu đã giao cho tổ chức, cá nhân khác chiếm hữu, sử dụng chiếc xe đó. 6.  “Ngày” (thời hạn) quy định trong Thông tư này là ngày làm việc. Điều 4. Nguyên tắc tham gia bảo hiểm 1.   Chủ xe cơ giới tham gia giao thông trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tham gia bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo quy định tại Thông tư này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 2.   Chủ xe cơ giới không được đồng thời tham gia hai hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự trở lên cho cùng một xe cơ giới. 3.  Ngoài việc tham gia hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự, chủ xe cơ giới có thể thỏa thuận với doanh nghiệp bảo hiểm để tham gia hợp đồng bảo hiểm tự nguyện. 4.   Doanh nghiệp bảo hiểm được quyền chủ động bán bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới dưới các hình thức sau: a)   Trực tiếp. b)   Thông qua đại lý bảo hiểm, môi giới bảo hiểm. c)   Các hình thức khác phù hợp với quy định của pháp luật. Trường hợp bán bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thông qua đại lý bảo hiểm thì đại lý bảo hiểm phải đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định tại Luật Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành, các quy định khác của pháp luật có liên quan. Doanh nghiệp bảo hiểm không được sử dụng đại lý bán bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới của doanh nghiệp bảo hiểm khác trừ trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm đó chấp thuận bằng văn bản và doanh nghiệp bảo hiểm phải đào tạo và cấp chứng chỉ đại lý bảo hiểm theo đúng quy định. Điều 5. Phạm vi bồi thường thiệt hại 1.   Thiệt hại ngoài hợp đồng về thân thể, tính mạng và tài sản đối với bên thứ ba do xe cơ giới gây ra. 2.   Thiệt hại về thân thể và tính mạng của hành khách theo hợp đồng vận chuyển hành khách do xe cơ giới gây ra.   Chương II QUY ĐỊNH CỤ THỂ   Điều 6. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới 1.   Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới (sau đây gọi tắt là Giấy chứng nhận bảo hiểm) là bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự duy nhất giữa chủ xe cơ giới và doanh nghiệp bảo hiểm. Mỗi xe cơ giới được cấp 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm. Chủ xe cơ giới bị mất Giấy chứng nhận bảo hiểm phải có văn bản đề nghị doanh nghiệp bảo hiểm (nơi đã cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm) cấp lại Giấy chứng nhận bảo hiểm. 2.   Doanh nghiệp bảo hiểm cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm cho chủ xe cơ giới khi chủ xe cơ giới đã thanh toán phí bảo hiểm hoặc cam kết thanh toán phí bảo hiểm theo quy định tại Khoản 3 Điều này. 3.    Việc thanh toán phí bảo hiểm hoặc cam kết thanh toán phí bảo hiểm được thực hiện như sau: a)    Trường hợp phí bảo hiểm dưới 50 triệu đồng: Chủ xe cơ giới thanh toán 01 lần tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm. b)    Trường hợp phí bảo hiểm từ 50 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng: Chủ xe cơ giới thỏa thuận bằng văn bản với doanh nghiệp bảo hiểm thanh toán 01 lần, thời hạn thanh toán không quá 10 ngày kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm. c)    Trường hợp phí bảo hiểm từ 100 triệu đồng trở lên: Chủ xe cơ giới thỏa thuận bằng văn bản với doanh nghiệp bảo hiểm việc thanh toán phí bảo hiểm như sau: -   Lần 1: Thanh toán 50% tổng phí bảo hiểm trong thời hạn không quá 10 ngày kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm; -    Lần 2: Thanh toán 50% phí bảo hiểm còn lại trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm.   d)    Việc thanh toán phí bảo hiểm phải được xác nhận bằng một trong các hình thức sau: Biên lai thu phí bảo hiểm; hóa đơn thu phí bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm; xác nhận thanh toán phí bảo hiểm của chủ xe cơ giới trên Giấy chứng nhận bảo hiểm (đối với trường hợp chủ xe cơ giới đã thanh toán phí bảo hiểm đầy đủ); các hình thức chứng từ hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. 4.   Trường hợp chủ xe cơ giới không thanh toán đủ phí bảo hiểm quy định tại Khoản 3 Điều này, hợp đồng bảo hiểm sẽ chấm dứt hiệu lực  vào ngày kế tiếp  ngày chủ xe cơ giới phải thanh toán phí bảo hiểm. Trong thời hạn 05 ngày làm  việc kể từ ngày hợp đồng bảo hiểm chấm dứt hiệu lực, doanh nghiệp bảo hiểm  phải thông báo bằng văn bản cho chủ xe cơ giới về việc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm và hoàn lại cho chủ xe cơ giới phần phí bảo hiểm đã thanh toán thừa (nếu có) hoặc yêu cầu chủ xe cơ giới thanh toán đủ phí bảo hiểm đến thời điểm chấm dứt hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm không phải hoàn phí bảo hiểm trong trường hợp đã xảy ra sự kiện bảo hiểm và phát sinh trách nhiệm bồi thường bảo hiểm trước khi hợp đồng bảo hiểm bị chấm dứt. Doanh nghiệp bảo hiểm không có trách nhiệm bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm trong thời gian hợp đồng bảo hiểm bị chấm dứt. Hợp đồng bảo hiểm tiếp tục có hiệu lực kể từ thời điểm chủ xe thanh toán đủ phí bảo hiểm và được doanh nghiệp bảo hiểm chấp thuận bằng văn bản. 5.  Phát hành, quản lý và sử dụng Giấy chứng nhận bảo hiểm: a)    Doanh nghiệp bảo hiểm được phép tự in Giấy chứng nhận bảo hiểm theo đúng mẫu do Bộ Tài chính quy định tại Phụ lục 1 và Phụ lục 2 ban hành kèm theo Thông tư này. Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới phải in riêng, tách biệt với phần Giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện (nếu có). Trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm ghép Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới và Giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện xe cơ giới thì thực hiện theo hướng dẫn tại Phụ lục 3, Phụ lục 4 ban hành kèm theo Thông tư này; b)   Giấy chứng nhận bảo hiểm phải được in số theo dãy số tự nhiên, thứ tự từ nhỏ đến lớn; c)     Giấy chứng nhận bảo hiểm phải được sử dụng theo đúng thứ tự  Giấy  chứng nhận bảo hiểm của từng quyển, không được dùng cách số (trừ trường hợp viết sai cần hủy bỏ hoặc việc bỏ cách số là phù hợp với các quy định cụ thể theo quy trình quản lý ấn chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm. Giấy chứng nhận bảo hiểm   bị hủy bỏ phải được gạch chéo, ghi rõ là hủy bỏ và phải lưu trữ đầy đủ tại doanh nghiệp bảo hiểm);   d)    Doanh nghiệp bảo hiểm phải ghi đầy đủ các thông tin quy định trên Giấy chứng nhận bảo hiểm. Các thông tin ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm cấp cho chủ xe cơ giới phải trùng khớp với các thông tin trong các liên lưu tại doanh  nghiệp bảo hiểm; đ) Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm thực hiện mở sổ sách theo dõi việc phát hành, sử dụng và quyết toán việc sử dụng Giấy chứng nhận bảo hiểm, đảm bảo thường xuyên quản lý được chi tiết theo từng Giấy chứng nhận bảo hiểm; e)    Doanh nghiệp bảo hiểm phải xây dựng quy trình phát hành, quản lý và sử dụng Giấy chứng nhận bảo hiểm bảo đảm các quy định nêu trên. Điều 7. Thời hạn và hiệu lực bảo hiểm 1.   Thời điểm bắt đầu có hiệu lực của Giấy chứng nhận bảo hiểm được ghi cụ thể trên Giấy chứng nhận bảo hiểm nhưng không được trước thời điểm chủ xe cơ giới thanh toán đủ phí bảo hiểm, trừ một số trường hợp quy định tại điểm b, điểm c Khoản 3 Điều 6 Thông tư này. 2.   Thời hạn bảo hiểm ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm là 01 năm. Trong các trường hợp sau, thời hạn bảo hiểm có thể dưới 01 năm: a)    Xe cơ giới nước ngoài tạm nhập, tái xuất có thời hạn tham gia giao thông trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới 01 năm; b)   Niên hạn sử dụng của xe cơ giới nhỏ hơn 01 năm; c)    Xe cơ giới thuộc đối tượng đăng ký tạm thời theo quy định của pháp luật, bao gồm: -   Ô tô mới nhập khẩu và sản xuất lắp ráp lưu hành từ kho, cảng, nhà máy, đại lý bán xe đến nơi đăng ký hoặc về các đại lý, kho lưu trữ khác; -   Ô tô làm thủ tục xóa sổ để tái xuất về nước; -   Ô tô được phép quá cảnh (trừ xe có Hiệp định ký kết của Nhà nước); -   Ô tô sát xi có buồng lái, ô tô tải không thùng; -   Ô tô sát hạch; -    Xe mang biển số khu kinh tế thương mại theo quy định của Chính phủ vào hoạt động trong nội địa Việt Nam; -   Xe mới lắp ráp tại Việt Nam chạy thử nghiệm trên đường giao thông công cộng; -   Xe phục vụ hội nghị, thể thao theo yêu cầu của Chính phủ hoặc Bộ Công an; -   Các loại xe cơ giới khác được phép tạm đăng ký theo quy định của pháp luật. d)    Trường hợp chủ xe cơ giới có nhiều xe tham gia bảo hiểm vào nhiều thời điểm khác nhau trong năm nhưng đến năm tiếp theo có  nhu  cầu đưa về cùng một thời điểm bảo hiểm để quản lý, thời hạn bảo hiểm của các xe này có thể nhỏ hơn 01 năm và bằng thời gian hiệu lực còn lại của hợp đồng bảo hiểm đầu tiên của năm đó. Thời hạn bảo hiểm của năm tiếp theo đối với tất cả các hợp đồng bảo  hiểm (đã được đưa về cùng thời hạn) là 01 năm. 3.   Trong thời hạn còn hiệu lực ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm, nếu có sự chuyển quyền sở hữu xe cơ giới thì mọi quyền lợi bảo hiểm liên quan đến trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới cũ vẫn còn hiệu lực đối với chủ xe cơ giới mới. Điều 8. Phí bảo hiểm 1.   Phí bảo hiểm là khoản tiền mà chủ xe cơ giới phải thanh toán cho doanh nghiệp bảo hiểm khi mua bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ  giới. Mức phí bảo hiểm của từng loại xe cơ giới được quy định tại Phụ lục 5 ban hành kèm theo Thông tư này. 2.   Đối với các xe cơ giới được phép mua bảo hiểm có thời hạn dưới 01 năm theo quy định tại Khoản 2 Điều 7 của Thông tư này, mức phí bảo hiểm sẽ được  tính dựa trên mức phí bảo hiểm quy định tại Phụ lục 5 ban hành theo Thông tư này và tương ứng với thời hạn được bảo hiểm ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm. Cách tính cụ thể như sau: Phí bảo hiểm năm theo loại xe cơ giới = Phí bảo hiểmphải nộp / 365  x Thời hạn được bảo hiểm (ngày) Trường hợp thời hạn được bảo hiểm từ 30 ngày trở xuống thì phí bảo hiểm phải nộp được tính bằng phí bảo hiểm năm theo loại xe cơ giới/(chia) cho 12 tháng. Điều 9. Mức trách nhiệm bảo hiểm Mức trách nhiệm bảo hiểm là số tiền tối đa doanh nghiệp bảo hiểm có thể phải trả đối với thiệt hại về thân thể, tính mạng và tài sản của bên thứ ba và hành khách do xe cơ giới gây ra trong mỗi vụ tai nạn xảy ra thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. Cụ thể như sau: 1.   Mức trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về người do xe cơ giới gây ra  là 100 triệu đồng/1 người/1 vụ tai nạn. 2.   Mức trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về tài sản do xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe cơ giới tương tự (kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật) gây ra là 50 triệu đồng/1 vụ tai nạn. 3.   Mức trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về tài sản do xe ô tô, máy kéo, xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác  sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng (kể cả rơ-moóc và sơ mi rơ-moóc được kéo bởi xe ô tô hoặc máy kéo) gây ra là 100 triệu đồng/1 vụ tai nạn. Điều 10. Hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm 1.  Hợp đồng bảo hiểm chỉ được hủy bỏ trong những trường hợp sau: a)   Xe cơ giới bị thu hồi đăng ký và biển số theo quy định của pháp luật; b)   Xe cơ giới hết niên hạn sử dụng theo quy định của pháp luật; c)   Xe cơ giới bị mất được cơ quan công an xác nhận; d)   Xe cơ giới hỏng không sử dụng được hoặc bị phá hủy do tai nạn giao  thông được cơ quan công an xác nhận. 2.   Chủ xe cơ giới muốn hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm kèm theo Giấy chứng nhận bảo hiểm và các bằng chứng về việc xe cơ giới thuộc đối tượng được hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm theo  quy định tại Khoản 1 Điều này. Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt từ thời điểm doanh nghiệp bảo hiểm nhận được thông báo hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm. 3.    Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, doanh nghiệp   bảo hiểm phải hoàn lại cho chủ xe cơ giới 70% phần phí bảo hiểm của thời gian hủy bỏ. Doanh nghiệp bảo hiểm không phải hoàn phí bảo hiểm trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực, nhưng chủ xe cơ giới yêu cầu hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm đã xảy ra sự kiện bảo hiểm và phát sinh trách nhiệm bồi thường  bảo hiểm. 4.   Trường hợp chủ xe cơ giới không có thông báo về việc hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm, nhưng doanh nghiệp bảo hiểm có những bằng chứng cụ thể về việc xe cơ  giới thuộc đối tượng được hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm theo quy định tại Khoản 1 Điều này, thì doanh nghiệp bảo hiểm phải thông báo cho chủ xe cơ giới để thực hiện các thủ tục hủy bỏ hợp đồng. Sau 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo  mà chủ xe cơ giới không thực hiện các thủ tục hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm thì hợp đồng bảo hiểm mặc nhiên được hủy bỏ. Điều 11. Giám định thiệt hại 1.    Khi xảy ra tai nạn, doanh nghiệp bảo hiểm hoặc người được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền phải phối hợp chặt chẽ với chủ xe cơ giới, bên thứ ba hoặc người đại diện hợp pháp của các bên liên quan thực hiện việc giám định tổn thất để xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất. Kết quả giám định phải lập thành văn bản có chữ ký của các bên liên quan. Doanh nghiệp bảo hiểm chịu trách nhiệm về chi phí giám định. 2.    Trường hợp chủ xe cơ giới không thống nhất về nguyên nhân và mức độ thiệt hại do doanh nghiệp bảo hiểm xác định, hai bên có thể thỏa thuận chọn cơ quan giám định độc lập thực hiện việc giám định. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được việc trưng cầu giám định độc lập thì một trong các bên được yêu cầu Tòa án nơi xảy ra tổn thất hoặc nơi cư trú của chủ xe cơ giới chỉ định giám định độc lập. Kết luận bằng văn bản của giám định độc lập có giá trị bắt buộc đối với các bên. 3.   Trường hợp kết luận của giám định độc lập khác với kết luận giám định của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả chi phí giám định độc lập. Trường hợp kết luận của giám định độc lập trùng với kết luận giám định của doanh nghiệp bảo hiểm, chủ xe cơ giới phải trả chi phí giám định độc lập. 4.    Trong trường hợp đặc biệt không thể thực hiện được việc giám định, thì doanh nghiệp bảo hiểm được căn cứ vào các biên bản, kết luận của các cơ quan chức năng có thẩm quyền và các tài liệu liên quan để xác định nguyên nhân và  mức độ thiệt hại. Điều 12. Loại trừ bảo hiểm Doanh nghiệp bảo hiểm không bồi thường thiệt hại đối với các trường hợp sau: 1.  Hành động cố ý gây thiệt hại của chủ xe, lái xe hoặc của người bị thiệt hại. 2.   Lái xe gây tai nạn cố ý bỏ chạy không thực hiện trách nhiệm dân sự của chủ xe, lái xe cơ giới. 3.   Lái xe không có Giấy phép lái xe hoặc Giấy phép lái xe không phù hợp đối với loại xe cơ giới bắt buộc phải có Giấy phép lái xe. Trường hợp lái xe bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe có thời hạn hoặc không thời hạn thì được coi là không có Giấy phép lái xe. 4.   Thiệt hại gây ra hậu quả gián tiếp như: giảm giá trị thương mại, thiệt hại gắn liền với việc sử dụng và khai thác tài sản bị thiệt hại. 5.  Thiệt hại đối với tài sản bị mất cắp hoặc bị cướp trong tai nạn. 6.  Chiến tranh, khủng bố, động đất. 7.   Thiệt hại đối với tài sản đặc biệt bao gồm: vàng, bạc, đá quý, các loại giấy  tờ có giá trị như tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, hài cốt. Điều 13. Nguyên tắc bồi thường 1.   Khi tai nạn xảy ra, trong phạm vi mức trách nhiệm bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường cho chủ xe cơ giới số tiền mà chủ xe cơ giới đã bồi thường hoặc sẽ phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Trường hợp chủ xe cơ giới chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn, doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường trực tiếp cho người bị thiệt hại. 2.   Trường hợp cần thiết, doanh nghiệp bảo hiểm phải tạm ứng ngay những chi phí cần thiết và hợp lý trong phạm vi trách nhiệm bảo hiểm nhằm khắc phục hậu quả tai nạn. 3.  Mức bồi thường bảo hiểm: a)   Mức bồi thường cụ thể cho từng loại thương tật, thiệt hại về người được xác định theo Bảng quy định trả tiền bồi thường thiệt hại về người theo quy định tại Phụ lục 6 ban hành kèm theo Thông tư này hoặc theo thỏa thuận (nếu có) giữa chủ xe cơ giới và người bị thiệt hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị thiệt hại (trong trường hợp người bị thiệt hại đã chết) nhưng không vượt quá mức bồi thường quy định tại Phụ lục 6 ban hành kèm theo Thông tư này. Trường hợp có quyết định của tòa án thì căn cứ vào quyết định của tòa án nhưng không vượt quá mức bồi thường quy định tại Phụ lục 6 ban hành kèm theo Thông tư này. Trường hợp nhiều xe cơ giới gây tai nạn dẫn đến các thiệt hại về người, mức bồi thường được xác định theo mức độ lỗi của chủ xe cơ giới nhưng tổng mức bồi thường không vượt quá mức trách nhiệm bảo hiểm. Đối với vụ tai nạn được cơ quan có thẩm quyền xác định nguyên nhân do lỗi hoàn toàn của bên thứ ba thì mức bồi thường bảo hiểm về người đối với các đối tượng thuộc bên thứ ba bằng 50% mức bồi thường quy định Phụ lục 6 ban hành kèm theo Thông tư này. b)    Mức bồi thường cụ thể đối với thiệt hại về tài sản/1 vụ tai nạn được xác  định theo thiệt hại thực tế và theo mức độ lỗi của chủ xe cơ giới nhưng không vượt quá mức trách nhiệm bảo hiểm. 4.    Doanh nghiệp bảo hiểm không có trách nhiệm bồi thường phần vượt quá mức trách nhiệm bảo hiểm theo quy định tại Phụ lục 6 ban hành kèm theo Thông  tư này. 5.   Trường hợp chủ xe cơ giới đồng thời tham gia nhiều hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự cho cùng một xe cơ giới thì số tiền bồi thường chỉ được tính theo hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực bảo hiểm trước. Điều 14. Hồ sơ bồi thường Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm phối hợp với chủ xe cơ giới, người bị thiệt hại, cơ quan công an và các tổ chức, cá nhân có liên quan khác để thu thập  các tài liệu có liên quan đến vụ tai nạn giao thông để lập Hồ sơ bồi thường. Hồ sơ bồi thường bao gồm các tài liệu sau: 1.   Tài liệu liên quan đến xe, lái xe (Bản sao có xác nhận của doanh nghiệp bảo hiểm sau khi đã đối chiếu với bản chính): a)   Giấy đăng ký xe; b)   Giấy phép lái xe; c)    Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu hoặc các giấy tờ tùy thân khác của lái xe; d)   Giấy chứng nhận bảo hiểm. 2.   Tài liệu chứng minh thiệt hại về người (Bản sao của các cơ sở y tế hoặc bản sao có xác nhận của doanh nghiệp bảo hiểm), tùy theo mức độ thiệt hại về người  có thể bao gồm một hoặc một số các tài liệu sau: a)   Giấy chứng thương; b)   Giấy ra viện; c)   Giấy chứng nhận phẫu thuật; d)   Hồ sơ bệnh án; đ) Giấy chứng tử (trong trường hợp nạn nhân tử vong). 3.  Tài liệu chứng minh thiệt hại về tài sản: a)   Hóa đơn, chứng từ hợp lệ về việc sửa chữa, thay mới tài sản bị thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra do chủ xe thực hiện tại các cơ sở do doanh nghiệp bảo hiểm chỉ định hoặc được sự đồng ý của doanh nghiệp bảo hiểm; b)   Các giấy tờ chứng minh chi phí cần thiết và hợp lý mà chủ xe đã chi ra để giảm thiểu tổn thất hay để thực hiện theo chỉ dẫn của doanh nghiệp bảo hiểm. 4.  Bản sao các tài liệu liên quan của cơ quan có thẩm quyền về vụ tai nạn (trừ trường hợp quy định tại Khoản 5 Điều này): a)   Biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn; b)  Sơ đồ hiện trường, bản ảnh (nếu có); c)   Biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn; d)  Thông báo sơ bộ kết quả điều tra ban đầu vụ tai nạn giao thông; đ) Các tài liệu khác có liên quan đến vụ tai nạn (nếu có). 5.    Trường hợp cơ quan có thẩm quyền không có các tài liệu quy định tại Khoản 4 Điều này và thiệt hại xảy ra ước tính dưới 10 triệu đồng, hồ sơ bồi thường phải có các tài liệu quy định tại Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 Điều này và các tài liệu sau: a)   Biên bản xác minh vụ tai nạn giữa doanh nghiệp bảo hiểm và chủ xe cơ giới có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền nơi xảy ra tai nạn. Biên bản xác minh vụ tai nạn phải có các nội dung sau: -   Thời gian, địa điểm xảy ra tai nạn; -   Thông tin do chủ xe cơ giới hoặc lái xe gây tai nạn, nạn nhân hoặc đại diện của nạn nhân, các nhân chứng tại địa điểm xảy ra tai nạn (nếu có) cung cấp. Các đối tượng cung cấp thông tin phải ghi rõ họ tên, số chứng minh thư, địa chỉ; -   Mô tả hiện trường vụ tai nạn và thiệt hại của phương tiện bị tai nạn (kèm theo bản vẽ, bản ảnh). b)   Biên bản giám định xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại do doanh nghiệp bảo hiểm hoặc người được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền lập; c)   Các tài liệu có liên quan đến vụ tai nạn (nếu có). Điều 15. Thời hạn yêu cầu, thanh toán và khiếu nại bồi thường 1.   Thời hạn yêu cầu bồi thường của chủ xe cơ giới là 01 năm kể từ ngày xảy ra tai nạn, trừ trường hợp chậm trễ do nguyên nhân khách quan và bất khả kháng theo quy định của pháp luật. 2.   Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày xảy ra tai nạn (trừ trường hợp bất khả kháng), chủ xe cơ giới phải gửi thông báo bằng văn bản theo mẫu quy định tại Phụ lục 7 ban hành kèm theo Thông tư này và các tài liệu quy định trong hồ sơ yêu cầu bồi thường thuộc trách nhiệm của chủ xe cơ giới cho doanh nghiệp bảo hiểm. 3.   Thời hạn thanh toán bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm là 15 ngày kể từ khi nhận được hồ sơ bồi thường thuộc trách nhiệm của chủ xe cơ giới và không  quá 30 ngày trong trường hợp phải tiến hành xác minh hồ sơ. 4.   Trường hợp từ chối bồi thường, doanh nghiệp bảo hiểm phải thông báo bằng văn bản cho chủ xe cơ giới biết lý do từ chối bồi thường trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ yêu cầu bồi thường bảo hiểm. 5.   Thời hiệu khởi kiện về việc bồi thường bảo hiểm là 03 năm kể từ ngày doanh nghiệp bảo hiểm thanh toán bồi thường hoặc từ chối bồi thường. Quá thời hạn trên quyền khởi kiện không còn giá trị. Điều 16. Quyền của chủ xe cơ giới 1.   Được lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm để tham gia bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. 2.   Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích, cung cấp các thông tin liên  quan đến việc giao kết, thực hiện và hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm. 3.   Trường hợp có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm, có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giảm mức phí bảo hiểm phù hợp cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm. 4.   Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường nhanh chóng, đầy đủ và kịp thời theo hợp đồng bảo hiểm. 5.   Chủ xe cơ giới là đơn vị sản xuất kinh doanh, phí bảo hiểm được tính vào chi phí hoạt động kinh doanh; chủ xe cơ giới là cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, phí bảo hiểm được bố trí trong kinh phí hoạt động thường xuyên của cơ quan, đơn vị. 6.   Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Điều 17. Nghĩa vụ của chủ xe cơ giới 1.   Phải tham gia và thanh toán đầy đủ phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo quy định tại Thông tư này và các quy định của pháp luật có liên quan. Khi mua bảo hiểm, chủ xe cơ giới phải cung cấp đầy đủ và trung thực những nội dung đã được quy định trong Giấy chứng nhận bảo hiểm. 2.    Tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp bảo hiểm xem xét tình trạng xe trước khi cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm. 3.   Trường hợp có sự thay đổi về mục đích sử dụng xe dẫn đến tăng hoặc giảm các rủi ro được bảo hiểm, chủ xe cơ giới phải kịp thời thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm để áp dụng mức phí bảo hiểm phù hợp cho thời gian còn lại của hợp  đồng bảo hiểm. 4.   Chủ xe cơ giới phải luôn mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm còn hiệu lực khi tham gia giao thông, xuất trình giấy tờ này khi có yêu cầu của lực lượng cảnh sát giao thông và cơ quan chức năng có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật. 5.  Tuân thủ các quy định về đảm bảo an toàn giao thông đường bộ. 6.  Khi tai nạn giao thông xảy ra, chủ xe cơ giới phải có trách nhiệm: a)   Thông báo ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm để phối hợp giải quyết, tích cực cứu chữa, hạn chế thiệt hại về người và tài sản, bảo vệ hiện trường tai nạn đồng thời thông báo cho cơ quan công an hoặc chính quyền địa phương nơi gần nhất; b)   Không được di chuyển, tháo gỡ hoặc sửa chữa tài sản khi chưa có ý kiến chấp thuận của doanh nghiệp bảo hiểm; trừ trường hợp cần thiết để đảm bảo an toàn, đề phòng hạn chế thiệt hại về người và tài sản hoặc phải thi hành theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền; c)   Cung cấp các tài liệu trong Hồ sơ bồi thường quy định tại Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 và điểm c Khoản 5 Điều 14 (trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện sửa chữa, khắc phục thiệt hại thì chủ xe cơ giới không phải cung cấp tài liệu quy định tại điểm a Khoản 3 Điều 14 Thông tư này) và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình xác minh các tài liệu đó. Phối hợp với doanh nghiệp bảo hiểm thu thập tài liệu theo quy định tại điểm a Khoản 5 Điều 14 Thông tư này. 7.    Chủ xe cơ giới phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm trong trường hợp xe cơ giới thuộc đối tượng được hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm theo quy định tại Khoản 1 Điều 10 Thông tư này. 8.   Thông báo và trả tiền bồi thường cho người bị tai nạn số tiền họ được doanh nghiệp bảo hiểm trả đối với từng trường hợp thiệt hại về người theo đúng mức bồi thường quy định tại Phụ lục 6 ban hành kèm theo Thông tư này. 9.  Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. Điều 18. Quyền của doanh nghiệp bảo hiểm 1.   Thu phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo quy định của Bộ Tài chính. Trường hợp có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm, có quyền yêu cầu chủ xe cơ giới nộp thêm phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm. 2.   Yêu cầu chủ xe cơ giới cung cấp đầy đủ và trung thực những nội dung đã được quy định trong Giấy chứng nhận bảo hiểm; xem xét tình trạng xe cơ giới trước khi cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm. 3.   Đề nghị lực lượng Cảnh sát giao thông, Cảnh sát điều tra cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến vụ tai nạn theo quy định tại Khoản 3 Điều 22 Nghị định số 103/2008/NĐ-CP. 4.   Từ chối giải quyết bồi thường đối với những trường hợp không thuộc trách nhiệm bảo hiểm. 5.   Kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới phù hợp với thực tế triển khai loại hình bảo hiểm này. 6.   Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Điều 19. Nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm 1.    Phải bán bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo  đúng Quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm theo quy định tại Thông tư này. Trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm nhận được thông báo của chủ xe cơ giới về sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải giảm phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm và hoàn trả số tiền chênh lệch cho chủ xe cơ giới. 2.   Phải tổ chức tuyên truyền rộng rãi về chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm và giải thích rõ Quy tắc, điều khoản và biểu phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới cho chủ xe cơ giới. 3.   Phải sử dụng mẫu Giấy chứng nhận bảo hiểm theo quy định tại Phụ lục 1, Phụ lục 2, Phụ lục 3 (nếu có), Phụ lục 4 (nếu có) ban hành kèm theo Thông tư này để cấp cho chủ xe cơ giới. 4.   Không được chi hỗ trợ đại lý bán bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới dưới mọi hình thức ngoài mức hoa hồng bảo hiểm đại lý được hưởng theo quy định của Bộ Tài chính. 5.    Không được khuyến mại dưới mọi hình thức đối với bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. 6.   Thanh toán cho lực lượng Cảnh sát giao thông, Cảnh sát điều tra chi phí sao chụp những hồ sơ, biên bản tai nạn đã được cung cấp và có trách nhiệm giữ gìn bí mật trong quá trình điều tra. 7.    Thu thập các tài liệu trong Hồ sơ bồi thường quy định tại điểm a Khoản 3 (trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện sửa chữa, khắc phục thiệt hại), Khoản 4, điểm b và điểm c Khoản 5 Điều 14 Thông tư này. Phối hợp với chủ xe cơ giới thu thập tài liệu quy định tại điểm a Khoản 5 Điều 14 Thông tư này. 8.   Thông báo cho người bị tai nạn, chủ xe cơ giới biết số tiền bồi thường thiệt hại về người và thanh toán số tiền bồi thường theo đúng mức bồi thường quy định tại Phụ lục 6 ban hành kèm theo Thông tư này. 9.    Chi trả bồi thường nhanh chóng và chính xác theo quy định của Thông tư này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 10.    Trong vòng 15 ngày trước khi hết thời hạn bảo hiểm phải thông báo cho chủ xe cơ giới về việc hết thời hạn của hợp đồng bảo hiểm. 11.   Trích 1% doanh thu phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới hàng năm thanh toán góp vào Quỹ bảo hiểm xe cơ giới. 12.   Phải hạch toán tách biệt doanh thu phí bảo hiểm, hoa hồng, bồi thường và các khoản chi phí khác liên quan đến bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. 13.   Xây dựng và vận hành hệ thống công nghệ thông tin đảm bảo việc thống  kê và cập nhật tình hình triển khai bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đảm bảo kết nối vào cơ sở dữ liệu về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Hệ thống cơ sở dữ liệu tối thiểu phải cung cấp được các thông tin sau: a)   Thông tin chủ xe cơ giới: -   Tên chủ xe; -   Số Giấy chứng minh nhân dân của chủ xe hoặc số hộ chiếu (đối với chủ xe là cá nhân); -   Địa chỉ liên lạc. b)   Thông tin về xe cơ giới: -   Biển số đăng ký; -   Nhãn hiệu; -  Loại xe; -  Dung tích; -   Màu sơn; -   Năm sản xuất; -   Số máy; -   Số khung; -  Trọng tải (trường hợp xe ô tô); -   Số chỗ ngồi (trường hợp xe ô tô); -  Mục đích sử dụng xe: kinh doanh hoặc không kinh doanh (trường hợp xe ô tô); -   Số giấy chứng nhận bảo hiểm; -  Thời điểm có hiệu lực bảo hiểm; -  Thời điểm hết hiệu lực bảo hiểm; -   Phí bảo hiểm; -   Ngày nộp phí; -   Ngày cấp đơn; -   Nơi cấp đơn; -   Người cấp đơn. c)   Thông tin ghi nhận về số lần gây tai nạn, số lần bị xử lý vi phạm Luật Giao thông đường bộ của lái xe cơ giới: -   Số lần gây tai nạn (chi tiết thời gian, địa điểm, mức độ vi phạm theo xác định lỗi của cơ quan công an); -    Số lần đã nhận tiền bồi thường, số tiền bồi thường theo từng vụ tai nạn (chi tiết theo từng vụ tai nạn); -   Số lần bị xử lý vi phạm Luật giao thông đường bộ của lái xe (nếu có). 14.     Báo cáo Bộ Tài chính về tình hình thực hiện bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo định kỳ hoặc khi có yêu cầu, cụ thể: a)   Báo cáo định kỳ thực hiện theo quy định tại Phụ lục 8 và Phụ lục 9 ban hành kèm theo Thông tư này; b)   Báo cáo về tình hình triển khai bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới khi có yêu cầu của Bộ Tài chính. 15.   Chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc thực hiện bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. 16.   Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. Điều 20. Giải quyết tranh chấp Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm, nếu không giải quyết được bằng thương lượng giữa các bên liên quan sẽ được đưa ra Tòa án tại Việt  Nam  giải quyết.   Chương III TỔ CHỨC THỰC HIỆN Điều 21. Hiệu lực thi hành 1.   Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 4 năm 2016. 2.   Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đã được cấp trước ngày Thông tư này có hiệu lực vẫn được tiếp tục thực hiện theo quy định của pháp luật tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm. 3.    Thông tư này thay thế Thông tư số 126/2008/TT-BTC ngày 22/12/2008 quy định Quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; Điều 1 Thông tư số 151/2012/TT-BTC ngày 12/9/2012 sửa đổi, bổ sung Thông tư số 126/2008/TT-BTC ngày 22/12/2008 và Thông tư số 103/2009/TT-BTC ngày 25/5/2009; Điều 1 Thông tư số 43/2014/TT-BTC ngày 11/4/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 126/2008/TT-BTC ngày 22/12/2008, Thông tư số 103/2009/TT-BTC ngày 25/5/2009 và Thông tư số 151/2012/TT-BTC ngày 12/9/2012 của Bộ Tài chính. 4.   Trong quá trình thực hiện, nếu phát sinh vướng mắc, đề nghị phản ánh kịp thời về Bộ Tài chính để xem xét, giải quyết./. KT. BỘ TRƯỞNG THỨ TRƯỞNG   Trần Xuân Hà

Huyện Mê Linh (TP Hà Nội): quyết tâm phấn đấu trở thành huyện nông thôn mới

Sau 5 năm thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) với cách làm sáng tạo, huyện Mê Linh hoàn thành sớm công tác quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển vùng sản xuất... Đến nay, diện mạo NTM của huyện đã có nhiều đổi thay, những tuyến đường giao thông đang kết nối hoàn chỉnh, vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn đang hình thành, đời sống người dân được nâng cao. Thực hiện chương trình 02 - CTr/TU của Thành ủy Hà Nội về “Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông thôn”, huyện đã chỉ đạo tập trung nguồn lực đầu tư cho 4 xã chưa đạt chuẩn NTM hoàn thiện các tiêu chí: đường giao thông, nhà văn hóa, kênh mương thủy lợi...; đồng thời duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí xã đạt chuẩn NTM theo hướng bền vững, phát triển. Được sự quan tâm của Ban chỉ đạo Chương trình 02-Ctr/TU của Thành ủy, UBND và các sở, ban, ngành thành phố, đặc biệt là Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi cục Phát triển nông thôn thành phố, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Ban chỉ đạo huyện, Huyện ủy, HĐND, UBND huyện được thực hiện quyết liệt và đã đạt được nhiều kết quả mới. Về phát triển nông nghiệp, các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy lợi  đều có những chuyển biến tích cực. Tiến độ sản xuất vụ xuân đã đảm bảo hoàn thành theo đúng kế hoạch của thành phố. Công tác phòng, chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm được quan tâm chỉ đạo, giám sát chặt chẽ nên tình hình chăn nuôi của huyện vẫn duy trì và có bước phát triển, không bùng phát các loại dịch bệnh nguy hiểm.  Đặc biệt, việc chuyển đổi cây trồng, vật nuôi sau khi thực hiện dồn điền, đổi thửa đã mang lại nhiều hiệu quả rõ nét, người dân phấn khởi thực hiện. Nhiều hộ đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ đất trồng lúa có năng suất thấp sang trồng cây cảnh, bưởi, ổi, nuôi cá, trang trại chăn nuôi… bước đầu đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn trồng lúa, giúp nông dân tăng thu nhập, phát triển kinh tế gia đình vững chắc. Các vùng sản xuất tập trung đã hình thành rõ nét như vùng chăn nuôi tập trung các xã Liên Mạc, Tự Lập, Tiến Thắng và đang tiếp tục được nhân rộng khẳng định được hiệu quả kinh tế và từng bước phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung. Huyện Mê Linh có 16 xã, UBND huyện đã phê duyệt quy hoạch 16/16 xã. Đến nay, tình hình thực hiện các tiêu chí NTM cụ thể đạt được như sau: hạ tầng nông thôn (giao thông, thủy lợi, điện, trường học, cơ sở vật chất văn hóa, cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn, thông tin và truyền thông, nhà ở dân cư) được quan tâm đầu tư tương đối đồng bộ, làm cho bộ mặt nông thôn thay đổi, đáp ứng cơ bản nhu cầu sinh hoạt, đi lại và sản xuất của nhân dân. Về phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất: thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn huyện đến cuối năm 2016 đạt 33,01 triệu đồng/người/năm; tỷ lệ hộ nghèo tính đến đầu năm 2017 là 2.160 hộ, chiếm tỷ lệ 4,2%; tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên trên địa bàn đạt 92%; mô hình hợp tác xã (HTX) phát triển và hoạt động hiệu quả, toàn huyện hiện có 78 HTX, trong đó có 50 HTX dịch vụ nông nghiệp, 25 HTX hoạt động trong lĩnh vực khác, 3 quỹ tín dụng nhân dân. Các tiêu chí về văn hóa - xã hội, môi trường cũng được nâng lên rõ rệt. Hiện nay, số người trong độ tuổi từ 15 - 18 tuổi có bằng tốt nghiệp THCS là 99,6%; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học THPT là 98%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 59%. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng, toàn bộ trạm y tế xã đều đạt chuẩn quốc gia về y tế. Toàn huyện có 70/74 làng, thôn được công nhận Làng văn hóa (đạt 94,56%) và 40.391 hộ gia đình đạt danh hiệu Gia đình văn hóa, đạt 86,5%. Qua kiểm tra đánh giá việc sử dụng nước sinh hoạt, cảnh quan môi trường, thu gom rác thải... 16/16 xã cơ bản đạt tiêu chí môi trường. Hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở được củng cố và nâng cao, 16/16 Đảng bộ, chính quyền cấp xã đạt “hoàn thành tốt nhiệm vụ” trở lên, không có đảng bộ, chính quyền yếu kém, góp phần đảm bảo giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn ổn định. Đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng NTM từ huyện đến cơ sở đã có một bước trưởng thành quan trọng; cán bộ, đảng viên, nhân dân ở nhiều nơi đã nhận thức đầy đủ hơn về mục tiêu, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, một vấn đề nổi cộm đặt ra trong quá trình xây dựng NTM ở Mê Linh, dẫn đến một số tiêu chí chậm hoàn thành là do điều kiện kinh tế và nhận thức của nhân dân trên địa bàn các xã không đồng đều dẫn đến việc huy động nguồn lực phục vụ cho nhu cầu đầu tư, xây dựng là rất khó. Một số cán bộ và quần chúng nhân dân vẫn có tư tưởng trông chờ vào ngân sách nhà nước, trong khi đó nhu cầu kinh phí đầu tư xây dựng nông thôn mới rất lớn, nguồn thu ngân sách của huyện ít, nguồn đấu giá đất hạn chế. Nhận rõ những tồn tại và hạn chế, mục tiêu của huyện Mê Linh trong năm 2017 là tiếp tục đầu tư cho các tiêu chí chưa đạt và cơ bản đạt, chủ yếu là về xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như đường giao thông trục chính và liên thôn, đường giao thông ngõ xóm, nhà văn hóa; tiếp tục duy trì và hoàn thành các tiêu chí cơ bản đạt tại các xã đã được UBND thành phố công nhận đạt chuẩn NTM; chỉ đạo các ngành, các cấp tập trung công tác xây dựng NTM, trong đó ưu tiên nguồn lực đầu tư cho 4 xã chưa đạt chuẩn; phấn đấu đến cuối năm 2017 có thêm 3 xã đạt chuẩn NTM, nâng tổng số xã đạt chuẩn NTM toàn huyện là 15 xã, chiếm 93,75%. Để đạt được các mục tiêu này, bên cạnh việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành của chính quyền địa phương, tập trung nguồn lực đầu tư hoàn thiện các tiêu chí chưa đạt được, Ban chỉ đạo Chương trình 02-CT tăng cường công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức để nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động.

Tập đoàn Hoa Sen ra mắt sản phẩm mới: ống nhựa chịu nhiệt PP – R (2 lớp) chống tia UV

Tập đoàn Hoa Sen vừa ra mắt loại sản phẩm ống nhựa chịu nhiệt PP - R (2 lớp) chống tia UV, chịu được nhiệt độ cao, thích hợp sử dụng cho lắp đặt ngoài trời, đặc biệt an toàn và thân thiện với môi trường. Theo số thống kê của Hiệp hội Thép Việt Nam, Tập đoàn Hoa Sen hiện đang dẫn đầu các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh tôn, thép tại thị trường Việt Nam với 33,1% thị phần tôn và 20,3% thị phần ống thép trong năm 2016. Riêng đối với sản phẩm ống nhựa, Tập đoàn Hoa Sen đã có bước đột phá vượt trội khi vươn lên tốp 3 doanh nghiệp phát triển mạnh nhất trong thị trường ống nhựa trên cả nước chỉ sau vài năm sản xuất. Hiện tại, Tập đoàn Hoa Sen đang sản xuất và kinh doanh 3 loại sản phẩm ống nhựa chính: uPVC, HDPE, PP - R và đầy đủ các loại phụ kiện đi kèm. Là một doanh nghiệp luôn tiên phong trong việc nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường và mang lại lợi ích tốt nhất cho người tiêu dùng, Tập đoàn Hoa Sen vừa giới thiệu dòng sản phẩm ống nhựa chịu nhiệt PP - R (2 lớp) chống tia UV (tia cực tím) có ưu điểm vượt trội so với những sản phẩm ống nhựa thông thường. Sản phẩm ống nhựa chịu nhiệt PP – R của Hoa Sen Ống nhựa chịu nhiệt PP - R chống tia UV Hoa Sen cấu tạo gồm hai lớp: lớp bên trong có thể chịu nhiệt cao lên tới 95oC, lớp bên ngoài có khả năng chống nắng, đóng vai trò giống như lớp áo bảo vệ ống PP - R tránh khỏi tác động của tia cực tím, giúp tăng tuổi thọ của ống nhựa khi lắp đặt, sử dụng dưới ánh nắng mặt trời. Đặc biệt, sản phẩm ống nhựa chịu nhiệt PP - R Hoa Sen được cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm và phù hợp với quy chuẩn quốc gia QCVN 12-1:2011/BYT. Mặt trong và ngoài thành ống nhựa trơn láng, không đóng rong rêu, không đóng cặn, đảm bảo vệ sinh nguồn nước và không chứa các hóa chất độc hại, an toàn cho sức khỏe của người dùng. Sản phẩm ống nhựa này còn có khả năng kháng hóa chất tốt, chống lại sự ăn mòn của những hóa chất nồng độ thấp như các dung dịch axit, kiềm, muối, dung môi yếu,… Ngoài ra, sản phẩm ống nhựa chịu nhiệt PP - R còn có các đặc tính nổi bật khác: trọng lượng nhẹ, dễ di chuyển; tính cách âm cao, không gây tiếng ồn và không rung khi dòng nước chảy qua; thành ống, lòng ống mịn, màu sắc hài hòa, hình dáng phụ kiện hiện đại. Ra mắt sản phẩm ống nhựa chịu nhiệt PP - R (2 lớp) chống tia UV là minh chứng mạnh mẽ cho việc Tập đoàn Hoa Sen luôn là doanh nghiệp đi đầu trong việc nghiên cứu, đầu tư công nghệ mới để sản xuất ra những sản phẩm tốt nhất, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường và đem lại lợi ích thiết thực cho người tiêu dùng. Nhà máy sản xuất ống nhựa của Tập đoàn Hoa Sen Nhằm tiếp tục nâng cao vị thế của ống nhựa Hoa Sen tại thị trường trong nước, Tập đoàn Hoa Sen đã và đang thực thi kế hoạch mở rộng hệ thống sản xuất thông qua việc đầu tư các Nhà máy sản xuất ống nhựa ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam. Việc đầu tư dây chuyền công nghệ hiện đại từ châu Âu cùng hệ trộn trung tâm, nguyên liệu phối trộn được cân chính xác bằng hệ thống cân định lượng và hoạt động hoàn toàn tự động đã cho ra những sản phẩm ống nhựa đồng nhất, chất lượng tốt, chịu được nhiệt độ cao và thân thiện với môi trường. Đồng thời, nhờ việc triển khai song song mở rộng hệ thống sản xuất và hệ thống chi nhánh phân phối – bán lẻ, sản phẩm ống nhựa Hoa Sen cùng hai sản phẩm chủ lực tôn Hoa Sen và ống kẽm Hoa Sen đã và đang được phân phối tới tận tay người tiêu dùng, đáp ứng nhanh nhất nhu cầu thị trường theo từng khu vực. Đây chính là nền tảng vững chắc để Tập đoàn Hoa Sen tiếp tục khẳng định vị thế dẫn đầu ở thị trường tôn, thép, nhựa trong nước bằng việc nhanh chóng chiếm lĩnh và mở rộng thị trường nội địa. Tập đoàn Hoa Sen hiện đang có 11 nhà máy lớn tại cả 3 miền Bắc, Trung, Nam sản xuất các mặt hàng tôn, ống kẽm, ống nhựa cùng hệ thống hơn 250 chi nhánh phân phối - bán lẻ, đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của khách hàng trên 63 tỉnh, thành trên cả nước. Lan Hương

Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Trung tâm Y tế Lâm Hà – Đoàn Minh Cương tận tâm với công việc

Trải qua nhiều vị trí công tác, từ tháng 11/2014 đến nay, bác sĩ chuyên khoa cấp II Đoàn Minh Cương giữ chức Giám đốc Trung tâm Y tế Lâm Hà (tỉnh Lâm Đồng) và từ tháng 4/2015 là Bí thư Đảng ủy Trung tâm. Bằng nhiệt huyết với công việc, kinh nghiệm và tinh thần trách nhiệm cao, đồng chí đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, đóng góp vào thành công chung của đơn vị. Trên cương vị là Bí thư Đảng ủy, đồng chí đã cùng với Đảng bộ tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết của Đảng ủy tới cán bộ, viên chức trong đơn vị, triển khai cụ thể, kịp thời các Nghị quyết của Đảng các cấp. Nhờ sự chủ động của đồng chí Đoàn Minh Cương, đội ngũ nhân sự của Trung tâm luôn ổn định tư tưởng, chấp hành nghiêm pháp luật, quy định của đơn vị, cùng phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao. Đảng bộ nhiều năm đạt trong sạch vững mạnh. Cá nhân đồng chí Đoàn Minh Cương được tín nhiệm bầu làm Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ huyện khóa VII nhiệm kỳ 2015 - 2020. Với trình độ chuyên môn vững, giàu kinh nghiệm, đồng chí đã đưa ra những quyết sách đúng đắn; chỉ đạo, giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của đơn vị; kịp thời giải quyết các vấn đề khó khăn, phức tạp. Kết quả các hoạt động y tế dự phòng được triển khai có nền nếp, không để dịch bệnh lớn xảy ra, các chương trình, dự án đạt chỉ tiêu kế hoạch. Công tác khám, chữa bệnh tiếp tục được củng cố, việc thực hiện quy chế bệnh viện, giao tiếp, ứng xử có nhiều tiến bộ góp phần củng cố lòng tin của nhân dân. Trên cương vị là người đứng đầu đơn vị, đồng chí luôn gương mẫu đi đầu, gần gũi, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của đội ngũ nhân sự, phát huy sức mạnh nội lực, tạo dựng tình đoàn kết, sự đồng thuận cao trong tập thể. Đặc biệt, bác sĩ Đoàn Minh Cương luôn không ngừng học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo, tiếp cận với phương thức quản lý hiện đại. Không chỉ khích lệ cán bộ, công chức, viên chức nghiên cứu và ứng dụng khoa học, kỹ thuật, bản thân đồng chí đã tham gia, chủ nhiệm một số đề tài. Tiêu biểu: “Đánh giá thực trạng công tác chẩn đoán và điều trị sốt rét tại tuyến y tế xã huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng năm 1999”; “Thực trạng quản lý, sử dụng trang thiết bị y tế tại các trạm y tế xã huyện Lâm Hà năm 2014”; “Kiến thức, thái độ, thực hành và một số yếu tố liên quan đến phòng, chống bệnh lao, phổi ở người từ 12 - 70 tuổi, Lâm Hà, Lâm Đồng, năm 2015”… Những cống hiến của Bác sĩ Đoàn Minh Cương được ghi nhận bằng nhiều danh hiệu, phần thưởng: 2 lần Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh; 12 năm liền Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở; nhiều Bằng khen của Bộ Y tế, UBND tỉnh Lâm Đồng; 2 Bằng khen của Tỉnh ủy; Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ…

Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Hòa Bình

Xứng đáng với niềm tin của chính quyền và nhân dân địa phương Là vùng đất có bề dày lịch sử, văn hóa, trải qua nhiều thăng trầm cùng đất nước, Hòa Bình có diện tích tự nhiên gần 4.600 km2, dân tộc thiểu số chiếm trên 72%. Tỉnh Hòa Bình không chỉ nổi tiếng bởi cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp mà còn hấp dẫn nhờ nét đặc sắc trong phong tục, tập quán của đồng bào các dân tộc địa phương. Nơi đây được coi là cái nôi của dân tộc Mường nổi tiếng với 4 mường “Bi, Vang, Thàng, Động” và nền “Văn hóa Hòa Bình”. Trong những năm gần đây, tỉnh Hòa Bình đã có những bước khởi sắc trên mọi lĩnh vực của Tỉnh đến từ sự chung sức của cả hệ thống chính trị và nhân dân, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VH,TT&DL) tỉnh. Là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, Sở luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ giúp UBND tỉnh quản lý về VH,TT&DL, gia đình trên địa bàn, thể hiện từ những mặt như sau: Trong công tác quản lý Nhà nước Thời gian qua, Sở đã có những đóng góp đầy tâm huyết trong xây dựng, ban hành được hàng loạt văn bản các loại, Chỉ thị, Nghị quyết và các quy định quy phạm pháp luật, chương trình hành động, kế hoạch, quy hoạch và đề án trong lĩnh vực ngành. Sở đã hoàn thành việc kiểm kê các di sản văn hóa trong địa bàn với hơn 200 di tích lịch sử văn hóa và danh thắng, đề nghị UBND tỉnh ban hành Quyết định quản lý trong đó có 41 di tích, danh thắng đã được công nhận di tich cấp Quốc gia và 37 di tích, danh thắng được công nhận cấp tỉnh, 768 địa chỉ di sản phi vật thể các dân tộc thiểu số trong địa bàn tỉnh. Sở đã tổ chức thực hiện được trên 10 đề tài nghiên cứu khoa học về di sản, di tích; tham mưu cho UBND tỉnh lựa chọn di sản Mo Mường và Nghệ thuật Chiêng Mường đề nghị Bộ VH,TT&DL quyết định đưa vào danh mục Di sản văn hóa Quốc gia. Trong đó, di sản Mo Mường được đề nghị Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam cấp Bằng Bảo trợ và tiến hành xây dựng kế hoạch và lộ trình lập hồ sơ Di sản trình các cấp xem xét đề nghị tổ chức UNESCO thế giới công nhận là Di sản văn hóa Phi vật thể của Nhân loại. Trong năm 2016, Sở đã tham mưu có hiệu quả cho UBND tỉnh đề nghị Bộ VHTT&DL trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch Quốc gia hồ Hòa Bình đến năm 2030; tham mưu cho Ban Tổ chức Lễ kỷ niệm 130 năm thành lập tỉnh, 25 năm tái lập tỉnh và Lễ hội Chiêng Mường lần thứ II, đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhất, công bố Quy hoạch Khu du lịch Quốc gia hồ Hòa Bình và trao Bằng công nhận di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia Mo Mường và Nghệ thuật Chiêng Mường tỉnh Hòa Bình; tham mưu cho UBND tỉnh ban hành Bộ phiên âm chữ Mường hiện đang triển khai phổ biến trong địa bàn tỉnh. Đồng chí Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư trao Huân chương Độc lập hạng Nhất cho nhân dân và cán bộ tỉnh Hòa Bình Hội Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam cấp bằng bảo trợ cho 20 nghệ nhân Mo Mường; Nhà nước công nhận 8 Nghệ nhân ưu tú và 1 Nghệ sĩ ưu tú đợt một giai đoạn 2016 - 2020. Quản  lý tốt gần 200 cơ sở dịch vụ văn hóa, kinh doanh dịch vụ văn hoá trong địa bàn, hàng năm tiếp nhận trên 60 lượt đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp và doanh nghiệp biểu diễn vào phục vụ trong tỉnh; thẩm định trên 500 thông báo dịch vụ quảng cáo, quản lý và giám sát trên 50 lễ hội truyền thống. Tiếp nhận hàng trăm đoàn nghiên cứu, báo chí vào tìm hiểu và khai thác văn hóa trong địa bàn. Đồng thời, phối hợp tốt với các cơ quan chức năng tổ chức tốt công tác kiểm tra, phát hiện, xử lý nghiêm các vi phạm trong hoạt động văn hóa, kinh doanh dịch vụ văn hóa, lễ hội và du lịch trên địa bàn tỉnh. Qua đó, Sở đã kịp thời nhắc nhở, xử phạt vi phạm hành chính 2 đơn vị quảng cáo, 1 đơn vị truyền thông với số tiền 23 triệu đồng trong năm 2016. Công tác xã hội hóa đã đem lại những tín hiệu khả quan khi huy động được các nguồn lực xã hội đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa, thể thao và tài trợ cho hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao các cấp; góp phần làm phong phú đời sống tinh thần cho nhân dân. Hoạt động tuyên truyền về các sự kiện văn hóa, văn nghệ diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú: treo panô, khẩu hiệu; tuyên truyền bằng xe chuyên dụng; trưng bày triển lãm tranh,... Sở đã chỉ đạo tổ chức nhiều hội thi, hội diễn, liên hoan nghệ thuật; nâng cao chất lượng hoạt động của các câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ, duy trì và phát triển trên 2.000 đội văn nghệ quần chúng trong tỉnh. Về tài chính được tỉnh hỗ trợ 2 triệu đồng/đội văn nghệ/năm. Trong năm qua, toàn tỉnh đã tổ chức gần 13.500 buổi biểu diễn, phục vụ trên 4 triệu lượt người xem. Nhằm đáp ứng nhu cầu thụ hưởng văn hóa của đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa, đồng thời tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Sở đã tổ chức nhiều chương trình biểu diễn nghệ thuật, phổ biến phim, chiếu bóng với hơn 1.300 buổi chiếu hàng năm. Đặc biệt, đoàn nghệ thuật tỉnh đã tham gia biểu diễn động viên bộ đội Trường Sa và Nhà giàn DK1, được Bộ Tư lệnh Hải quân và UBND tỉnh tặng Bằng khen. Hệ thống thư viện từ tỉnh đến cơ sở đã giúp xây dựng văn hóa đọc cho người dân. Tổ chức hàng trăm đợt trưng bày sách báo, mở cửa phục vụ 20.800 lượt bạn đọc với 61.500 lượt sách báo luân chuyển hàng năm. Bảo tồn tinh hoa văn hóa truyền thống, phát huy tiềm năng du lịch Trân trọng tinh hoa văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc, Sở đã áp dụng nhiều chính sách hỗ trợ, sưu tầm, nghiên cứu, phục dựng, phát triển các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Bên cạnh đó, nhằm tạo dựng đội ngũ kế cận, tạo điều kiện để giới trẻ thêm hiểu và yêu mến những giá trị truyền thống, Sở đã triển khai mô hình truyền dạy cồng chiêng, hát dân ca của dân tộc Mường tại huyện Kim Bôi thu hút hàng ngàn lượt người tham gia. Mô hình này được đánh giá cao và đã thực sự tạo sức lan tỏa mạnh mẽ trong toàn tỉnh. Bà Đặng Thị Bích Liên - Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch  trao Bằng công nhận Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia Mo Mường và Chiêng Mường Sở cũng chỉ đạo các địa phương trong tỉnh tổ chức, duy trì tốt các lễ hội truyền thống gắn với bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc. Các lễ hội Chiêng Mường, Chùa Tiên, Khai Hạ - Mường Bi, Xên Bản - Xên Mường Mai Châu, Lễ hội Đình Băng - Lạc Sơn,… diễn ra an toàn, văn minh, thu hút đông đảo nhân dân và du khách tham gia. Đặc biệt, năm 2016, tỉnh đã xác lập kỷ lục Guiness về màn trình tấu Chiêng lớn nhất Việt Nam với sự tham gia của 1.600 nghệ nhân. Quản lý và khai thác tốt 41 di tích lịch sử văn hóa, danh thắng cấp Quốc gia, 37 di tích cấp tỉnh cũng được tiến hành tốt. Phát huy tiềm năng, lợi thế về du lịch, Sở đã phối hợp quảng bá hình ảnh quê hương, con người Hòa Bình; xây dựng các sản phẩm du lịch độc đáo; quản lý chặt chẽ các doanh nghiệp, hộ gia đình kinh doanh dịch vụ. Một trong những điển hình trong phát triển du lịch theo hướng bền vững, chuyên nghiệp phải kể đến mô hình “du lịch cộng đồng huyện Mai Châu” với doanh thu đạt trên 75 tỷ đồng năm 2016. Nhờ xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch khoa học, mang tầm chiến lược của tỉnh, lượng khách du lịch đến với Hòa Bình không ngừng tăng, đạt 02 triệu lượt trong năm qua. Chú trọng phát triển thể dục thể thao và công tác gia đình Hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”, Sở đã phối hợp tổ chức các giải thể thao cấp huyện, cấp tỉnh; phát triển 670 câu lạc bộ thể thao. Tính đến cuối năm 2016, toàn tỉnh có 29% người tập thể dục thường xuyên; 22,6% hộ gia đình thể thao; gần 66.700 người đạt chế độ rèn luyện thể thao theo tiêu chuẩn. Quan tâm phát triển thể thao thành tích cao, trong năm qua Sở đã huấn luyện 62 lượt vận động viên; tham gia thi đấu 15 giải thể thao khu vực và toàn quốc; đạt 23 Huy chương Vàng, 32 Huy chương Bạc, 19 Huy chương Đồng. Với mục đích nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, nhân dân địa phương đối với công tác gia đình, hiện nay toàn tỉnh đã xây dựng được 1.422 câu lạc bộ phòng chống bạo lực gia đình, phát triển gia đình bền vững; 837 địa chỉ tin cậy cộng đồng. Hàng năm, Sở đã tổ chức tốt các hoạt động Hội thi chuyên đề Gia đình và tọa đàm chuyên đề. Năm 2016 đã tổ chức thành công Hội thi “Gia đình hạnh phúc”, đăng phát tin bài trên các phương tiện thông tin đại chúng; thực hiện Tháng hành động Quốc gia phòng chống bạo lực gia đình,... Với các thành tích trên, hàng năm tập thể cán bộ, công chức, viên chức của Sở VH,TT&DL tỉnh Hòa Bình đã được các cấp ghi nhận và khen thưởng, tô thắm truyền thống vẻ vang của ngành bằng nhiều thành tích: Huân chương Lao động hạng Nhì, hạng Ba; Cờ thi đua của Chính phủ; Cờ thi đua Bộ, Cờ thi đua của tỉnh, Cờ thi đua phong trào An ninh trật tự, nhiều Bằng khen của Bộ VH,TT&DL; Bằng khen của UBND tỉnh Hòa Bình; danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc;… Với tinh thần đoàn kết, sự chủ động, sáng tạo, Sở VHTTDL tỉnh Hòa Bình sẽ không ngừng cống hiến, góp phần thiết thực vào sự  phát triển bền vững của vùng đất Hòa Bình mến yêu.  

Huyện Cao Phong (tỉnh Hòa Bình): sức sống mới, diện mạo mới sau 15 năm thành lập

Năm 2001, huyện Cao Phong được thành lập trên cơ sở chia tách từ huyện Kỳ Sơn và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 15/3/2002. Với diện tích tự nhiên là 25.600,25 ha, Cao Phong có 13 đơn vị hành chính với 3 dân tộc cùng sinh sống (Mường, Kinh, Dao), dân số trên 4 vạn người. Trên chặng đường 15 năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong huyện đã nhận thức đúng đắn những thuận lợi và khó khăn, tập trung dân chủ, đoàn kết một lòng, phát huy nội lực, năng động, sáng tạo, phát huy cao nhất tiềm năng, thế mạnh của địa phương, ra sức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, tranh thủ sự quan tâm giúp đỡ của các cấp, các ngành, cùng với sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn thể nhân dân và các cấp ủy Đảng, chính quyền trong huyện để triển khai toàn diện, hiệu quả các nhiệm vụ. Sau 15 năm xây dựng và trưởng thành, huyện đã có những bước tiến vượt bậc. Nhân dân và cán bộ huyện Cao Phong vinh dự đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhì  Kinh tế - xã hội có những chuyển biến tích cực. Tính chung trong 15 năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm đạt 12%; thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2002 đạt 1,4 tỷ đồng, năm 2016 đạt trên 29 tỷ đồng, tăng hơn 20 lần so với năm 2002. Thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh, năm 2002 đạt 3 triệu đồng, 2016 đạt 32,8 triệu đồng/người, tăng hơn 10 lần so với năm 2002. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp (tỷ trọng nông nghiệp, lâm, ngư nghiệp năm 2002 là 72%, đến năm 2016 giảm xuống còn 46%; tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng tăng từ 18% năm 2002 lên 28% năm 2016; tỷ trọng du lịch, dịch vụ tăng từ 10% năm 2002 lên 26% năm 2016). Diện mạo của huyện Cao Phong đã có sự thay đổi nhanh chóng, kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội của huyện ngày càng được hoàn thiện, các khu dân cư mới được hình thành, trụ sở các cơ quan hành chính được xây dựng khang trang, hệ thống giao thông được quy hoạch xây dựng đồng bộ... đã phục vụ tốt hơn đời sống của nhân dân trên địa bàn và thu hút đầu tư phát triển. Bộ mặt nông thôn và thị trấn huyện lỵ thay đổi từng ngày. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao.     Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm mô hình trồng Cam của huyện (năm 2015) Với định hướng ưu tiên phát triển kinh tế du lịch và nông nghiệp, trong đó phát triển nông nghiệp với hai loại cây trồng chính là cam và mía, vì vậy cây cam, quýt trên địa bàn đã tăng mạnh về cả diện tích, năng suất và chất lượng sản phẩm. Năm 2014, sản phẩm cam Cao Phong đã được Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ cấp giấy chứng nhận chỉ dẫn địa lý, trở thành sản phẩm nông nghiệp đầu tiên của tỉnh Hòa Bình được cấp bằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý, tạo ra bước đột phá trong định hướng phát triển nông nghiệp của huyện nhà, mở ra một hướng mới là xây dựng Cao Phong thành một huyện sản xuất hàng hóa tập trung về sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao. Năm 2015, huyện Cao Phong đã tổ chức thành công Lễ hội cam Cao Phong lần thứ nhất, đã tạo được tiếng vang lớn đến người tiêu dùng trong cả nước và được tỉnh đánh giá cao. Tiếp nối thành công đó, năm 2016, trong chương trình kỷ niệm 130 năm thành lập tỉnh Hòa Bình, Lễ hội cam Cao Phong và Hội chợ Nông nghiệp - Du lịch - Thương mại vùng Tây Bắc là một trong những chương trình diễn ra đầu tiên trong chuỗi các hoạt động chào mừng lễ kỷ niệm. Sự thành công của Lễ hội cam Cao Phong lần thứ 2 và Hội chợ Nông nghiệp - Du lịch - Thương mại vùng Tây Bắc đã tạo bước đột phá mang tính chiến lược trong định hướng phát triển nông nghiệp, góp phần trực tiếp nâng cao giá trị của cam Cao Phong một cách bền vững, tạo điều kiện thuận lợi để cam Cao Phong phát triển ổn định, có điều kiện tiếp cận các thị trường trong và ngoài nước. Năm 2016, diện tích cam, quýt của huyện khoảng 2.080 ha, sản lượng đạt trên 23.000 tấn. Bình quân 1 ha cam, quýt có tổng thu nhập ước đạt từ 300 - 600 triệu đồng; diện tích mía khoảng 2.500 ha, giá trị bình quân ước đạt khoảng 200 - 240 triệu đồng/ha. Trong lĩnh vực nông nghiệp có gần 400 hộ dân thu từ 100 đến 500 triệu đồng, có trên 130 hộ thu từ 500 triệu đến 1 tỷ đồng, có 70 hộ dân thu từ 1 đến 3 tỷ đồng và có trên 20 hộ dân thu trên 3 tỷ đồng, có những hộ thu trên 9 tỷ đồng/năm. Lĩnh vực du lịch đạt mức tăng trưởng mạnh trong giai đoạn 2010 - 2015, hướng tới trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện. Kết cấu hạ tầng du lịch được tăng cường, tạo ra bước phát triển có tính đột phá. Công tác quản lý, bảo tồn, phục dựng và phát huy các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể: lễ hội Đền Bờ; lễ hội Mường Thàng, lễ hội Khai xuân, lễ hội Chùa Khánh, lễ hội rước nước – Đền Bồng Lai...; khai thác có hiệu quả di tích lịch sử Chiến khu Cao Phong - Thạch Yên, di tích lịch sử anh hùng lực lượng vũ trang Cù Chính Lan, di tích Vườn Hoa - Núi Cối, Đền Thượng Bồng Lai... đặc biệt quần thể hang động núi Đầu Rồng được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích cấp Quốc gia đã tạo ra diện mạo mới và sức hấp dẫn của du lịch Cao Phong. Số lượng khách du lịch năm sau cao hơn năm trước; năm 2016, đạt trên 260.000 lượt khách. Cao Phong vẫn giữ được khá nhiều bản sắc văn hóa của dân tộc Mường, mà tiêu biểu hơn cả là văn hóa cồng chiêng. Hiện nay toàn huyện có trên 3.000 chiêng Mường, các xã đều có đội cồng chiêng và duy trì hoạt động thường xuyên. Tại Lễ kỷ niệm 130 năm thành lập tỉnh Hòa Bình, đội cồng chiêng Cao Phong tham dự với 800 tay chiêng, trang phục váy áo truyền thống và chiếc chiêng trên tay, phụ nữ Mường Thàng đã góp phần đưa nét đẹp văn hóa Mường đến với đông đảo công chúng trong và ngoài tỉnh.   Cam - Sản phẩm đặc trưng tiêu biểu của huyện Cao Phong Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo quyết liệt, đến nay huyện đã có 3 xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó xã Dũng Phong là xã đầu tiên của tỉnh đạt chuẩn nông thôn mới năm 2014. Đây là tiền đề vững chắc tiến tới mục tiêu có một nền sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại; hoàn thiện đồng bộ kết cấu hạ tầng xã hội nông thôn để nhân dân có đời sống sung túc; làng xã văn minh, sạch đẹp, xã hội dân chủ, đảm bảo sự hài lòng ngày càng cao của cán bộ và nhân dân đối với các mặt đời sống xã hội. Cùng với phát triển kinh tế, các lĩnh vực văn hoá, y tế, giáo dục, các hoạt động văn nghệ, thể thao, thông tin tuyên truyền và các lĩnh vực xã hội khác từng bước được chăm lo, phát triển. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo đạt được những tiến bộ mới, toàn diện. Cơ sở vật chất trường lớp được tăng cường, năm 2016 số phòng học được kiên cố hóa đã chiếm 98%; 20/40 trường đạt chuẩn Quốc gia, đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên đủ về số lượng, từng bước nâng cao trình độ chuyên môn; 100% giáo viên các cấp đạt chuẩn và vượt chuẩn theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chất lượng dạy và học ngày càng được nâng cao; tỷ lệ học sinh thi vào các trường đại học năm sau cao hơn năm trước. Cơ sở vật chất phục vụ chăm sóc sức khoẻ nhân dân được mở rộng và tăng cường. Đến năm 2016, huyện có 5,5 bác sĩ/1 vạn dân; 7 xã đạt Bộ tiêu chí Quốc gia về y tế năm 2016 đạt 53,85%. Văn hoá - văn nghệ, thể dục - thể thao phát triển mạnh và đạt nhiều thành tích. Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống được chú trọng. Công tác xoá đói, giảm nghèo được quan tâm chỉ đạo với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân tham gia với nhiều hình thức phong phú, sáng tạo. Những kết quả đó, đã làm thay đổi cuộc sống của nhiều hộ dân, nhất là những vùng khó khăn. Năm 2016, tỷ lệ hộ nghèo của huyện còn 21,87% (Theo tiêu chí nghèo đa chiều). Công tác quốc phòng, quân sự địa phương được tăng cường, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền đã quán triệt và thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế đi đôi với củng cố quốc phòng - an ninh; thường xuyên chăm lo, xây dựng lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân trong sạch, vững mạnh. Với sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc huyện Cao Phong, nhiều năm liền huyện Cao Phong được xếp hạng thi đua nằm trong tốp đầu của khối huyện, thành phố, được tặng Cờ thi đua xuất sắc và nhiều Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh. Đặc biệt năm 2012, Cao Phong vinh dự được đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba nhân dịp lễ kỷ niệm 10 năm thành lập huyện. Nhân dịp kỷ niệm 15 năm ngày thành lập, Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc huyện Cao Phong vinh dự được đón nhận phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước Huân chương Lao động hạng Nhì. Chặng đường phía trước còn đó nhiều thời cơ, thuận lợi và không ít khó khăn, thách thức, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Cao Phong sẽ tiếp tục phát huy truyền thống lịch sử và cách mạng của quê hương, đồng tâm, hợp sức, nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn thách thức; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và sâu rộng công cuộc đổi mới, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Cao Phong lần thứ 27, xây dựng quê hương Cao Phong ngày càng văn minh, giàu mạnh.

Trang