Kinh tế

Nâng cao năng lực cạnh tranh, hiện thực hóa các Mục tiêu Phát triển bền vững thời kì 4.0

TĐKT - Ngày 5/7, tại Hà Nội, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Hội đồng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Việt Nam (VBCSD) thuộc VCCI đã phối hợp với Ngân hàng Thế giới tổ chức Hội nghị toàn quốc về Phát triển bền vững 2018 với chủ đề “Nâng cao năng lực cạnh tranh, hiện thực hóa các Mục tiêu Phát triển bền vững trong thời kì cách mạng công nghiệp 4.0”. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tới dự. Hội nghị tập trung thảo luận về những vấn đề và giải pháp để thúc đẩy hợp tác công - tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững ở Việt Nam trong thời gian tới. Những kiến nghị từ Hội nghị sẽ góp phần thúc đẩy việc triển khai các chương trình hành động của Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp nhằm nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh để phát triển bền vững trong thời kỳ kỷ nguyên số. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại Hội nghị Phát biểu tại sự kiện, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao VCCI, VBCSD và Ngân hàng Thế giới đã tổ chức Hội nghị Quốc gia ý nghĩa này. Thủ tướng nhận định rằng đây là Hội nghị có quy mô về phát triển bền vững tại Việt Nam và là cơ hội để cộng đồng doanh nghiệp có thể đối thoại trực tiếp với lãnh đạo Đảng, Chính phủ, các bộ, ban, ngành nhằm tăng cường hỗ trợ từ phía Chính phủ đối với sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Thủ tướng tin tưởng rằng với sự nỗ lực của Chính phủ, sự đồng hành của cộng đồng doanh nghiệp, sự đồng thuận của xã hội và sự ủng hộ, hợp tác của cộng đồng quốc tế, Việt Nam sẽ hoàn thành các Mục tiêu Phát triển bền vững cùng Chương trình Nghị sự 2030 với những kết quả tốt nhất, đặc biệt là trong bối cảnh tối ưu hóa mọi thành tưu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Tiến sĩ Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI kiêm Đồng Chủ tịch VBCSD đánh giá cao chủ đề của Hội nghị. Ông khẳng định niềm tin mạnh mẽ Việt Nam sẽ tăng tốc và trở thành nước có thu nhập trung bình cao trong vòng hai thập niên tới với những thành quả ấn tượng về bình đẳng, công bằng xã hội và quản lý nhà nước hiệu quả. Để làm được điều đó, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của doanh nghiệp cũng như sự đồng thuận và nỗ lực của tất cả các thành phần trong xã hội, các bên liên quan cũng như sự hợp tác và hỗ trợ hiệu quả của các tổ chức quốc tế. “Chúng ta tiến lên phía trước một cách vững chắc với sự tham gia đầy đủ của từng cá nhân, từng nhóm người, từng ngành nghề, đóng góp vào sự phát triển thịnh vượng chung của đất nước và hoàn thành các Mục tiêu Phát triển bền vững đúng thời hạn.”, ông Lộc chia sẻ. Toàn cảnh Hội nghị Ông Ousmane Dione, Giám đốc Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam chia sẻ về những xu hướng lớn có thể tái định hình nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới: Việc chuyển đổi các mô hình thương mại; sự gia tăng của nền kinh tế tri thức, biến đổi khí hậu và sự già hóa dân số. Đại diện của WB cũng giới thiệu những phát hiện quan trọng từ Báo cáo “Công việc tương lai của Việt Nam”, trong đó nhấn mạnh nếu không khai thác một cách có lợi các xu hướng lớn nêu trên, sẽ khiến cho “cỗ máy việc làm” không hoạt động hiệu quả, dẫn đến tương lai của việc làm tại Việt Nam không được bảo đảm. Ông cho rằng để thực hiện phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh, Việt Nam cần vận dụng và phát huy hiệu quả các nguồn vốn (thể chế, con người, sản xuất hoặc vật chất và vốn tự nhiên), song song với việc nắm bắt các xu hướng lớn và đảm bảo cỗ máy tạo việc làm hoạt động trơn tru. Hội nghị được chia làm hai phiên. Trong phiên buổi sáng, đại diện lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã long trọng công bố Diễn đàn hợp tác cấp cao vì mục tiêu xanh toàn cầu 2030 (gọi tắt là Diễn đàn quốc gia P4G). Mục đích của Diễn đàn nhằm tạo điều kiện và thúc đẩy phát triển quan hệ đối tác công tư đóng góp vào tiến trình thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu 2030 thông qua thực hiện tăng trưởng xanh, và tạo điều kiện phổ biến và mở rộng quy mô thực hiện các giải pháp trên phạm vi toàn cầu. Tham gia phiên buổi chiều của Hội nghị, các khách mời đã được lắng nghe các báo cáo, trình bày về Kế hoạch của Chính phủ để cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, xây dựng thành phố thông minh từ đại diện lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học và Công nghệ, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và UBND TP Hồ Chí Minh, cũng như gắn kết 17 Mục tiêu Phát triển bền vững trong hoạt động kinh doanh để nâng cao năng lực cạnh tranh từ HEINEKEN Việt Nam. Bên cạnh đó, những tham luận từ lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Coca - Cola Việt Nam, Ericsson Việt Nam và TBS Group đã cập nhật tình hình triển khai Thỏa thuận Paris, kế hoạch thúc đẩy sự tham gia của doanh nghiệp để thực hiện thành công Thỏa thuận quan trọng này; những kiến nghị cho Chính phủ để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp tiếp cận và phát triển nền tảng công nghệ mới, tối ưu hóa các cơ hội do làn sóng cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại cũng như đảm bảo việc làm cho người lao động trong tương lai. Hưng Vũ  

Phát động chương trình 50 doanh nghiệp công nghệ thông tin hàng đầu Việt Nam 2018

TĐKT - Ngày 3/7, Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ công nghệ thông tin Việt Nam (VINASA) phát động chương trình 50 doanh nghiệp công nghệ thông tin hàng đầu Việt Nam 2018. Chương trình sẽ lựa chọn các doanh nghiệp công nghệ thông tin uy tín, có năng lực của Việt Nam để giới thiệu, quảng bá và kết nối hợp tác với các đối tác tiềm năng trong nước, quốc tế. Lễ công bố 50 doanh nghiệp công nghệ thông tin hàng đầu Việt Nam năm 2017 Năm 2018 là năm thứ 5 chương trình bình chọn 50 doanh nghiệp công nghệ thông tin hàng đầu năm 2018 được tổ chức. Trước đó, năm 2017, 50 doanh nghiệp được lựa chọn của chương trình đạt tổng doanh thu 20.676 tỷ đồng, tương đương 936 triệu USD, chiếm gần 1/4 doanh thu của ngành phần mềm, dịch vụ công nghệ thông tin Việt Nam 2017 với tổng số nhân lực là 35.542 người. Các doanh nghiệp công nghệ thông tin điển hình không chỉ đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng GDP cho đất nước mà còn tạo ra sự lan tỏa trong cộng đồng về ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển tới tất cả các ngành, lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội... Năm nay, bên cạnh việc lựa chọn 50 doanh nghiệp trong các lĩnh vực, Ban tổ chức sẽ lựa chọn 10 doanh nghiệp tiêu biểu nhất trong lĩnh vực chuyển đổi số (Digital transformation), internet kết nối vạn vật (Internet of Things -IoT) và các xu hướng công nghệ mới. Qua đó, Ban tổ chức phát đi thông điệp kêu gọi các doanh nghiệp trong ngành tiếp tục nỗ lực sáng tạo, tập trung xây dựng và triển khai chiến lược chuyển đổi số, phát triển sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao theo xu hướng công nghệ mới: Trí tuệ nhân tạo (AI), Robotics, tự động hóa, in 3D… Những sản phẩm công nghệ này không chỉ đáp ứng nhu cầu thị trường Việt Nam, mà còn góp phần mở rộng sản phẩm công nghệ của Việt Nam đến với thị trường quốc tế, đặc biệt là thị trường trọng điểm như Nhật Bản, Bắc Mỹ và châu Âu. Chương trình 50 doanh nghiệp công nghệ thông tin hàng đầu Việt Nam 2018 gồm 3 nội dung chính: Ban tổ chức tiến hành bình chọn 50 doanh nghiệp công nghệ thông tin hàng đầu Việt Nam 2018 và 10 doanh nghiệp có năng lực công nghệ mới tiêu biểu nhất của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4; biên soạn ấn phẩm đặc biệt “50+10 doanh nghiệp công nghệ thông tin hàng đầu Việt Nam - Vietnam’s 50+10 Leading IT Companies 2018” bằng tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Nhật; giới thiệu, quảng bá thông tin về 50+10 doanh nghiệp hàng đầu về ngành công nghệ thông tin Việt Nam đến các đối tác, khách hàng tiềm năng trong nước, quốc tế. Các doanh nghiệp công nghệ thông tin có tư cách pháp nhân tại Việt Nam, được thành lập từ 3 năm trở lên đăng ký tham gia chương trình tại địa chỉ http://leadingitcompanies.com đến ngày 12/7. Lễ công bố 50 doanh nghiệp công nghệ thông tin hàng đầu Việt Nam 2018 sẽ diễn ra vào tối 18/10 tại Hà Nội. Nguyệt Hà

Khai mạc phiên họp lần thứ 132 Hội đồng Hợp tác Hải quan của tổ chức Hải quan Thế giới

TĐKT - Ngày 28/6, Phiên họp toàn thể lần thứ 132 Hội đồng Hợp tác Hải quan của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) đã khai mạc tại thủ đô Brussels, Vương quốc Bỉ. Đoàn Hải quan Việt Nam do Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan Nguyễn Văn Cẩn làm trưởng đoàn dự phiên họp quan trọng hàng năm này.  Tổng Cục trưởng Tổng Cục Hải quan Nguyễn Văn Cẩn tại phiên họp toàn thể lần thứ 132 của WCO Phiên họp lần thứ 132 sẽ diễn ra từ hôm nay 28/6/2018 đến hết ngày 30/6/2018 tại trụ sở của WCO.  Đây là phiên họp quan trọng nhất trong năm, các Tổng Cục trưởng và người đứng đầu 182 cơ quan hải quan thành viên của WCO sẽ rà soát, đánh giá công tác trong thời gian qua và xây dựng các định hướng chính sách, biện pháp về kỹ thuật nghiệp vụ cho đến các cơ chế hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực của công tác hải quan trên phạm vi toàn cầu trước những thách thức có liên quan đến tự do thương mại, bảo hộ mậu dịch, buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép các chất ma túy, hàng cấm, chất nổ, hàng giả, hàng nhái, các chất thải độc hại có nguy cơ tác động đến môi trường và sức khỏe cộng đồng… Phiên họp cũng dành thời gian để kiện toàn bộ máy và thể chế hoạt động của Tổ chức Hải quan Thế giới và Ban Thư ký Tổ chức Hải quan Thế giới nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh hiện nay. Tại Phiên họp, Tổng Cục trưởng Hải quan các nước thảo luận và thông qua báo cáo của các Ủy ban Chính sách chung, Ủy ban Kỹ thuật thường trực, Ủy ban kiểm soát, Ủy ban Xây dựng năng lực, Ủy ban Kiểm toán, Ủy ban Tài chính ngân sách, việc đóng góp niên liễm và sử dụng nguồn ngân sách của WCO… Về vấn đề chính sách, Phiên họp lần thứ 132 năm nay sẽ tập trung thảo luận về việc thực hiện kế hoạch chiến lược 2018 - 2019 của WCO và phê duyệt các khuyến nghị về định hướng xây dựng phát triển hiện đại hóa của các cơ quan hải quan nhằm hỗ trợ cho việc tăng cường tính cạnh tranh của nền kinh tế (Gói chính sách Cạnh tranh Kinh tế), định hướng cho công tác thực thi pháp luật (Gói biện pháp nâng cao mức độ tuân thủ và thực thi pháp luật hải quan hiệu quả) và các chính sách và giải pháp đảm bảo cho thu ngân sách quốc gia (Gói nguồn thu). Các Tổng Cục trưởng Hải quan cũng tiến hành thảo luận và phê duyệt bộ chỉ số đánh giá hoạt động của cơ quan hải quan. Các lĩnh vực ưu tiên hiên nay của WCO về chính sách chung bao gồm việc triển khai thực hiện Hiệp định Tạo thuận lợi thương mại của WTO của các cơ quan hai quan, các biện pháp quản lý hải quan hiện quả đối với thương mại điện tử, các vấn đề an ninh cho chuỗi dây chuyền cung ứng thương mại toàn cầu, cơ chế hợp tác giữa thuế nội địa và cơ quan hải quan, biện pháp kiểm soát dòng tiền bất hợp pháp liên quan đến các giao dịch thương mại qua biên giới. Phiên họp sẽ quyết định một số định hướng cho việc rà soát Khung tiêu chuẩn về đảm bảo an ninh và tạo thuận lợi thương mại toàn cầu (SAFE), rà soát Công ước Kyoto sửa đổi về đơn giản hóa và hài hòa hóa thủ tục hải quan và vấn đề gia nhập WCO của một số chủ thể chưa phải là thành viên của Liên hợp quốc. Về vấn đề kỹ thuật nghiệp vụ hải quan, Phiên họp sẽ thông qua một số kết quả đạt được liên quan đến nghiệp vụ hai quan về xác định xuất xứ hàng hóa, xác định trị giá hải quan và phân loại hàng hóa đối với một số mặt hàng mới xuất hiện. Năm 2018 là năm kết thúc nhiệm kỳ Tổng Thư ký Tổ chức Hải quan Thế giới, vì vậy, Phiên họp lần này sẽ tiến hành bầu cử Tổng thư ký nhiệm kỳ 2019 – 2023 với 2 ứng viên của Nhật Bản và Tây Ban Nha tham gia tranh cử. Bên cạnh đó, Phiên họp cũng sẽ bầu thành viên theo nhiệm kỳ của một số ủy ban của WCO trong đó có Ủy ban Chính sách chung, Ủy ban Tài chính và Ủy ban Kiểm toán. Hồng Thiết  

Ký kết Nghị định thư trao đổi thông tin điện tử hải quan

TĐKT - Ngày 28/6, tại Brussele, Vương Quốc Bỉ, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Việt Nam Nguyễn Văn Cẩn và những người đứng đầu cơ quan Hải quan trung ương của các nước Ac-mê-ni-a, Bê-la-rút, Ca-dắc-xtan, Liên bang Nga, Kư-rơ-gứt-xtan đã ký kết Nghị định thư về trao đổi thông tin điện tử về hải quan nhằm triển khai thực hiện Điều 5.7 của Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và các nước thành viên Liên minh Kinh tế Á – Âu. Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Việt Nam Nguyễn Văn Cẩn ký kết Nghị định thư trao đổi thông tin điện tử hải quan Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và các nước thành viên Liên minh Kinh tế Á – Âu (EAEU) gồm Ac-mê-ni-a, Bê-la-rút, Ca-dắc-xtan, Liên bang Nga, Kư-rơ-gứt-xtan được ký kết và có hiệu lực từ ngày 5/10/2016 (sau đây gọi tắt là Hiệp định). Nhằm mục đích tạo thuận lợi cho việc thực thi hoạt động hải quan, đẩy nhanh quá trình giải phóng hàng hóa và ngăn chặn vi phạm pháp luật hải quan, theo quy định của Điều 5.7 của Hiệp định, các bên tham gia Hiệp định có nghĩa vụ thực hiện việc trao đổi thông tin điện tử về hải quan. Căn cứ vào khoản 4 của Điều 5.7 của Hiệp định, sau các phiên tham vấn và trao đổi, các bên đã thống nhất các điều khoản cụ thể của Nghị định thư để tiến hành trao đổi thông tin điện tử theo quy định của Hiệp định. Nội dung chính: Nghị định thư ký kết nhằm thực hiện cam kết về trao đổi thông tin điện tử về hải quan giữa các cơ quan hải quan trung ương của các quốc gia thành viên của Liên minh Kinh tế Á – Âu và cơ quan hải quan trung ương của Việt Nam quy định tại Điều 5.7 Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam với Liên minh Kinh tế  Á – Âu. Nghị định thư gồm 10 Điều và 3 phụ lục kỹ thuật. Lộ trình thực hiện sẽ tuân thủ theo các cam kết tại khoản 6 Điều 5.7 của Hiệp định, cụ thể: Trong 1 năm thử nghiệm, từ 5/10/2018 đến trước 5/10/2019, thực hiện trao đổi thông tin điện tử đối với một số hàng hóa. Từ 5/10/2019 đến trước 5/10/2021: Thực hiện trao đổi thông tin đối với hàng hóa có kim ngạch thương mại giữa các bên tăng hơn 20% tính từ thời điểm Hiệp định có hiệu lực. Từ 5/10/2021: Thực hiện trao đổi thông tin đối với toàn bộ hàng hóa giao dịch giữa các bên. Việc ký kết Nghị định thư khẳng định vai trò chủ động, tích cực của Việt Nam trong việc thực hiện cam kết của Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam với Liên minh Kinh tế Á – Âu, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam với các nước thành viên Liên minh Kinh tế Á-Âu. Việc ký kết và thực hiện Nghị định thư với cơ chế trao đổi, truyền thông tin thường xuyên và ngay sau khi thông quan hàng hóa sẽ góp phần tích cực vào công tác đấu tranh phòng, chống các vi phạm hải quan, góp phần thu đúng, thu đủ các khoản thu cho ngân sách, qua đó tạo môi trường thuận lợi, an ninh, an toàn cho hoạt động thương mại đầu tư kinh doanh giữa các bên, đóng góp vào việc phát triển kinh tế - xã hội tại mỗi nước. Hơn nữa, cơ chế trao đổi thông tin trước khi hàng đến cũng sẽ góp phần giúp đẩy nhanh quá trình thông quan hàng hóa, tạo thuận lợi cho thương mại và thúc đẩy hàng hóa xuất khẩu của mỗi nước, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang xuất khẩu nhiều hơn sang các nước thuộc Liên minh thì sẽ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cộng đồng doanh nghiệp và hàng hóa của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường các nước này.   Trong thời gian qua, nhằm giúp các doanh nghiệp có đầy đủ thông tin và chủ động trong các chiến lược kinh doanh của mình, Tổng cục Hải quan đã tiến hành nhiều hoạt động tuyên truyền và cung cấp thông tin cho cộng đồng doanh nghiệp về việc triển khai thực hiện các cam kết trong các hiệp định thương mại tự do trong đó có Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và các nước thành viên của Liên minh Kinh tế Á - Âu. Hồng Thiết  

Nông nghiệp tăng trưởng cao nhất trong 10 năm qua

TĐKT – Sáng 28/6, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức Hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm và triển khai kế hoạch 6 tháng cuối năm 2018. Dự và chủ trì Hội nghị có: Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường, các đồng chí là Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ… Quang cảnh Hội nghị Sáu tháng đầu năm 2018, ngành nông nghiệp đã triển khai thực hiện kế hoạch trong điều kiện khá thuận lợi về thời tiết, khí hậu; cây trồng, vật nuôi sinh trưởng và phát triển tốt. Nhờ đó, sản xuất toàn ngành tiếp tục tăng trưởng mạnh, tốc độ tăng trưởng vượt mục tiêu đã đề ra và đạt mức cao. Ngành trồng trọt tiếp tục thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa kém hiệu quả (đã chuyển 32.800 ha đất lúa) sang trồng các loại rau, quả, cây công nghiệp lâu năm có hiệu quả kinh tế cao hơn. Đồng thời, tăng cường sử dụng giống chất lượng cao và tổ chức sản xuất theo mô hình “cánh đồng lớn” không chỉ trên lúa mà còn trên các đối tượng cây rau màu khác. Cùng đó, đẩy mạnh áp dụng sản xuất theo quy trình VietGAP. Sản xuất chăn nuôi nhìn chung thuận lợi, thị trường tiêu thụ và giá các sản phẩm thịt bò, gia cầm ổn định; chăn nuôi lợn bắt đầu có dấu hiệu tái đàn khi giá thịt lợn hơi tăng cao. Một số sản phẩm chăn nuôi bước đầu đã xuất khẩu được sang những thị trường có yêu cầu cao về chất lượng và kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm. Tái cơ cấu lĩnh vực lâm nghiệp cũng đã có chuyển biến rõ rệt trên thực tiễn, có nhiều mô hình sản xuất lâm nghiệp giá trị cao, mô hình kinh doanh gỗ lớn. Đặc biệt, lĩnh vực sản xuất, chế biến lâm sản xuất khẩu đã có những bước phát triển mạnh mẽ, thị trường gỗ nội địa có những chuyển biến và khởi sắc. Sáu tháng đầu năm 2018, tốc độ tăng trưởng sản xuất ngành nông nghiệp đã vượt mục tiêu đã đề ra. Dự kiến GDP nông lâm thủy sản 6 tháng đầu năm tăng từ 3,95% - 4,05%, đạt mức tăng cao nhất trong 10 năm gần đây. Kim ngạch xuất khẩu ngành nông nghiệp 6 tháng đầu năm 2018 đạt 19,4 tỷ USD. Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản 10,3 tỷ USD (tăng 9,7%); giá trị xuất khẩu thủy sản 3,94 tỷ USD (tăng 10,5%); giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính 4,33 tỷ USD (tăng 12,7%) so với cùng kỳ năm 2017. Các mặt hàng tăng trưởng xuất khẩu tốt trong 6 tháng đầu năm 2018 là gạo khoảng 3,57 triệu tấn, giá trị 1,81 tỷ USD, tăng 12,5% về khối lượng và 42% về giá trị so với cùng kỳ 2017), rau quả (2 tỷ USD, tăng 20%), điều (1,71 tỷ USD, tăng 16,4%), thủy sản (3,94 tỷ USD, (tăng 10,5%) so với cùng kỳ năm 2017. Phong trào Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới đạt hiệu quả cao. Tính đến 25/6/2018, cả nước có 3.370 xã (37,76%) được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; 53 đơn vị cấp huyện thuộc 27 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Dự kiến đến hết năm 2018 vượt mục tiêu có ít nhất 40% số xã, 54 đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Trang Lê

Việt Nam xuất khẩu thành công lô thịt lợn đầu tiên theo đường chính ngạch

TĐKT - Chiều 25/6, tại Hà Nội, Tập đoàn Mavin cùng Tập đoàn Sojitz - Nhật Bản tổ chức Lễ công bố xuất khẩu thịt lợn thành công và ký kết hợp tác chiến lược với Tập đoàn Sojitz - Nhật Bản. Tới dự có: Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Vũ Văn Tám. Lễ ký kết hợp tác xuất khẩu thịt lợn Năm 2018, ngành chăn nuôi đề ra nhiều mục tiêu gắn với tái cơ cấu ngành, đồng thời, nâng cao hiệu quả sản xuất và phát triển bền vững tiến đến quá trình hội nhập và hướng đến xuất khẩu. Tính đến hết năm 2017, Việt Nam đã có 5 doanh nghiệp xuất khẩu thành công trứng ăn liền, 1 doanh nghiệp có lô thịt gà đầu tiên xuất khẩu. Tháng 5/2018 đánh dấu bước ngoặt lớn trong ngành chăn nuôi khi một doanh nghiệp của Việt Nam - Tập đoàn Mavin đã có lô hàng thịt lợn đầu tiên xuất khẩu sang Myanmar. Đáng chú ý, sản phẩm của Mavin được sản xuất theo chuỗi giá trị khép kín: Hoạt động chăn nuôi (Mavin Farm) - Thức ăn chăn nuôi (Mavin Austfeed) - Thuốc thú y (Mavinvet) - Thực phẩm chế biến (Mavin Food). Nhờ sở hữu và kiểm soát toàn bộ quy trình chăn nuôi, chế biến theo chuỗi, Tập đoàn Mavin đảm bảo sản phẩm thịt lợn sạch từ nguồn, an toàn vệ sinh tuyệt đối và có thể truy xuất được nguồn gốc. Ông David John Whitehead, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Mavin, cho rằng chất lượng và điều kiện về đảm bảo an toàn thực phẩm còn nhiều hạn chế và đây là rào cản khiến Việt Nam, một quốc gia có sản lượng thịt lợn lớn nhưng không thể xuất khẩu ra nước ngoài. Sau một thời gian dài Tập đoàn Mavin hợp tác với Công ty Sojitz Nhật Bản, thịt lợn Việt Nam đã vượt qua các điều kiện về kỹ thuật cũng như chất lượng để xuất khẩu thành công vào thị trường Myanmar. Người tiêu dùng Myanmar bước đầu có ấn tượng tốt và rất thích sản phẩm thịt lợn tươi của Việt Nam. Đây là cơ hội để sản phẩm thịt lợn tươi mở rộng thị trường tại Myanmar trong thời gian tới. Tập đoàn Mavin và Công ty Sojitz Nhật Bản cũng công bố, theo hợp đồng đã ký với đối tác Myanmar, mỗi tháng sẽ có ít nhất 1 đơn hàng khoảng 26 tấn thịt lợn tươi Việt Nam được xuất khẩu vào Myanmar. Phát biểu tại Lễ ký kết, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Vũ Văn Tám nhấn mạnh: Tập đoàn Mavin là doanh nghiệp đầu tiên làm được việc xuất khẩu thịt lợn tươi cấp đông sang thị trường quốc tế theo đường chính ngạch. Đây là niềm vui không chỉ của Mavin mà còn là niềm vui với ngành chăn nuôi và Việt Nam nói chung. Thứ trưởng Vũ Văn Tám cũng khẳng định, muốn xuất khẩu thịt lợn tươi sang các thị trường nước ngoài cần đáp ứng nhiều yêu cầu khắt khe của thị trường và cần có chứng nhận của tổ chức Thú y thế giới (OIE), Tập đoàn Mavin với thành công trong xuất khẩu lô thịt lợn đầu tiên sang thị trường Myanmar với mức giá cao hơn so khá nhiều so với giá thị trường trong nước, đã mở ra một hướng đi đầy triển vọng cho ngành chăn nuôi lợn nói riêng và ngành chăn nuôi nói chung.  Phương Thanh

Hướng tới chương trình “Đắk Nông - mùa bơ chín năm 2018”

TĐKT - Ngày 22/6, tại Hà Nội, UBND tỉnh Đắk Nông tổ chức họp báo giới thiệu chương trình “Đắk Nông – Mùa bơ chín” năm 2018. Chương trình diễn ra với mục tiêu đưa trái bơ Đắk Nông đến người tiêu dùng trong và ngoài nước. Bên cạnh việc liên kết với các doanh nghiệp trong và quốc tế, nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ, sự kiện còn là cơ hội để tỉnh Đắk Nông kêu gọi đầu tư vào những lĩnh vực thế mạnh của địa phương. Quang cảnh họp báo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Nông Tôn Thị Ngọc Hạnh cho biết: Đắk Nông hiện là một trong những tỉnh có diện tích và sản lượng bơ lớn của cả nước, với diện tích gần 2.600 ha, trồng chuyên canh hơn 700 ha, trồng xen canh gần 1.900 ha và năng suất bình quân từ 10 - 15 tấn/ha, chiếm khoảng 20% tổng diện tích cây ăn quả trên địa bàn tỉnh, chủ yếu tập trung nhiều ở các huyện: Đắk Mil, Đắk R’Lấp, Đắk Song, Đắk Glong và thị xã Gia Nghĩa. Theo các chuyên gia, cây bơ dễ trồng, ít sâu bệnh, chi phí chăm sóc chỉ bằng 1/3 các loại cây lâu năm khác, với giá bơ ổn định như nhiều năm qua, mỗi héc - ta sẽ cho thu hoạch từ 300-500 triệu đồng/năm. Hiện nay trên thị trường nhiều giống bơ cho quả ngon, chất lượng, năng suất cao được nông dân trồng nhiều như bơ Cuba, bơ 034, bơ Booth, bơ Hass, bơ sáp… Với đặc điểm địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng khác hơn so với các tỉnh nên Đắk Nông trồng được nhiều giống bơ cho trái quanh năm từ tháng 1 - 11 hằng năm. Bơ Đắk Nông đang được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng, bởi trái to hơn, dẻo hơn, màu vàng sậm hơn, mẫu mã đẹp hơn và chín kéo dài so với bơ các địa phương khác và là cây ăn trái có giá trị dinh dưỡng cao, giàu năng lượng, chứa khoảng 25 loại vitamin và khoáng chất tự nhiên có lợi cho sức khỏe, được xem là một loại quả “siêu thực phẩm” ít nơi nào có được. Tuy nhiên, dù có lợi thế lớn nhưng giá trị hàng hóa bơ Đắk Nông còn thấp do việc hạn chế trong ứng dụng khoa học, kỹ thuật, quy mô sản xuất manh mún, tình trạng bà con nông dân trồng tự phát không theo quy hoạch, nguồn vật tư đầu vào, quy trình sản xuất chưa đảm bảo, đầu ra sản phẩm không ổn định, chưa xây dựng thương hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý để truy xuất nguồn gốc xuất xứ… Để phát huy tiềm năng, lợi thế của cây bơ, chương trình “Đắk Nông – Mùa Bơ chín” năm 2018 gồm 5 sự kiện chính: Khai mạc, bế mạc; hội thảo phát triển bơ bền vững; hội chợ thương mại kết nối cung cầu bơ và các sản phẩm nông nghiệp; hội thi trái bơ ngon và tham quan, trải nghiệm các mô hình nông nghiệp diễn ra từ ngày 18 - 23/7/2018. Lễ khai mạc chương trình Đắk Nông – Mùa bơ chín sẽ được truyền hình trực tiếp trên Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Phát thanh – Truyền hình các tỉnh Tây Nguyên. Hồng Thiết – Phương Thanh

Hải quan – doanh nghiệp thực hiện tốt việc kết nối, chia sẻ, đồng hành

TĐKT -  “Hải quan – doanh nghiệp: Kết nối, chia sẻ, đồng hành” chính là chiến lược phát triển hải quan đến năm 2020 theo Quyết định 448/QĐ-TTg ngày 25/3/2011 và các Kế hoạch cải cách, phát triển, hiện đại hóa ngành Hải quan (các giai đoạn 2011-2015; 2016 - 2020) và đã được Tổng Cục Hải quan chia sẻ tại buổi tọa đàm ngày 21/6. Cho đến nay, Tổng cục Hải quan đã hình thành bộ máy tổ chức về phát triển quan hệ đối tác, đưa công tác này trở thành công việc thường xuyên của cơ quan hải quan các cấp. Hoạt động đối tác đã tích cực tham gia xây dựng sự hiểu biết đồng thuận, đồng hành giữa cơ quan hải quan và cộng đồng doanh nghiệp. Quang cảnh tọa đàm Với phương châm lắng nghe, thấu hiểu, chia sẻ, hợp tác, đồng hành, cơ quan hải quan các cấp thường xuyên tổ chức các hoạt động đối tác với cộng đồng doanh nghiệp dưới nhiều hình thức khác nhau, thu hút sự quan tâm và tham gia của cộng đồng doanh nghiệp. Các hoạt động đối tác trong những năm gần đây đã có sự đổi mới về cách làm, đi vào chiều sâu, thiết thực và gắn bó với doanh nghiệp. Cụ thể, cơ quan hải quan các cấp đã quan tâm nhiều hơn đến việc tổ chức các hội nghị doanh nghiệp theo chuyên đề, qua đó thu hút đúng đối tượng doanh nghiệp đến tham gia, tập trung đi vào các vấn đề thời sự mà doanh nghiệp quan tâm. Các cuộc đối thoại từng bước được chuyển biến về cách thức tổ chức, nội dung đối thoại, thực sự trở thành công cụ hữu ích trong việc giải quyết các bất đồng giữa các bên. Các cuộc tham vấn giữa hải quan - doanh nghiệp được tổ chức đi vào các nội dung cụ thể, hướng đến các nhóm đối tượng với sự tham gia của các bên liên quan. Kết quả tham vấn được thông tin đầy đủ đến các bên liên quan, từ đó xây dựng sự tin cậy trong hoạt động tham vấn. Tính trong năm 2017, cơ quan hải quan đã tổ chức 53 hội nghị doanh nghiệp, 89 cuộc đối thoại định kỳ với người khai hải quan, người nộp thuế về nhiều chủ đề thời sự: Thủ tục hành chính công trực tuyến, cơ chế một cửa quốc gia, một cửa Asean, hoạt động giám sát cảng biển đối vói doanh nghiệp kinh doanh cảng; chuẩn hóa thông điệp, dữ liệu quy trình trao đổi thông tin, phân loại hàng hóa, xử lý vi phạm hành chính... Hoạt động tham vấn doanh nghiệp cũng ghi nhận nhiều điển hình tích cực. Cục Hải quan Quảng Ninh đã tổ chức 17 buổi tham vấn, với nhiều ý kiến đóng góp và giải pháp phù hợp thực tiễn cho sửa đổi Thông tư 38/2015/TT-BTC. Cục Hải quan Hải Phòng tổ chức 125 lượt tham vấn. Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh với khoảng 500 lượt tham vấn. Theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Mai Xuân Thành: Với mong muốn hỗ trợ và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, cơ quan hải quan đặc biệt quan tâm đến công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, tập huấn, hướng dẫn cho doanh nghiệp. Trong đó, cơ quan hải quan lấy phương tiện thông tin đại chúng là công cụ thường xuyên truyền tải thông tin một cách nhanh nhất đến doanh nghiệp, với nòng cốt là cổng thông tin điện tử của cơ quan Hải quan các cấp, báo Hải quan kết hợp với báo, đài Trung ương và địa phương. Cùng với đó, các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp cũng có nhiều đổi mới. Bên cạnh việc tiếp nhận, hỗ trợ, giải quyết vướng mắc tại trụ sở cơ quan hải quan, nhiều địa phương, tỉnh thành cả nước đã chủ động đến với doanh nghiệp, tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu của doanh nghiệp, phương thức tổ chức sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp để từ đó có phương án hỗ trợ doanh nghiệp một cách tốt nhất. Tại các địa bàn đặc thù, cơ quan hải quan đã chủ động biên tập tài liệu hướng dẫn, dịch ra tiếng nước ngoài, phát tờ rơi đến doanh nghiệp làm thủ tục, giúp doanh nghiệp kịp thời nắm bắt quy định, chính sách, pháp luật, tuân thủ đúng pháp luật. Từ kiến nghị của phía doanh nghiêp, cơ quan hải quan đã điều chỉnh tăng cường các buổi tập huấn, hướng dẫn xuống cơ sở, đưa hoạt động tập huấn, hướng dẫn gần với doanh nghiệp hơn, trực tiếp đến với người làm thủ tục. Tính trong năm 2017, cơ quan hải quan các cấp đã thực hiện 16.353 tin, bài; phối hợp thực hiện 574 phóng sự truyền hình; biên tập, in ấn, phát hành 14.617 tờ rơi, tờ gấp về pháp luật hải quan, tổ chức hàng chục lượt tập huấn, hướng dẫn ở cả cấp trung ương và địa phương. Cùng với việc thúc đẩy và tăng cường hoạt động quan hệ đối tác với cộng đồng doanh nghiệp nói chung, trong những năm qua, Tổng cục Hải quan đặc biệt quan tâm thiết lập quan hệ đối tác thường xuyên với hiệp hội doanh nghiệp. Doanh nghiệp chủ động, tích cực và sẵn sàng hợp tác với cơ quan hải quan để xây dựng lực lượng nòng cốt trong quan hệ đối tác với cộng đồng doanh nghiệp. Tính đến nay, trên địa bàn cả nước, cơ quan hải quan đã ký bản thỏa thuận hợp tác với 232 doanh nghiệp để xây dựng đối tác thường xuyên làm lực lượng nòng cốt trong hoạt động đối tác hải quan - doanh nghiệp. Để quan hệ đối tác hải quan  - doanh nghiệp trong thời gian tới ngày càng hiệu quả, đi vào thực chất, cơ quan hải quan mong muốn cộng đồng doanh nghiệp tích cực, chủ động tham gia hợp tác với cơ quan hải quan trên tinh thần trách nhiệm, xây dựng và đóng góp cho cơ quan hải quan. Trong đó, doanh nghiệp nói chung và các hiệp hội doanh nghiệp nói riêng cần tăng cường kết nối và chia sẻ với cơ quan hải quan qua các kênh thông tin hiện có, tích cực đóng góp ý kiến, hiến kế các giải pháp cho cơ quan hải quan. Hồng Thiết  

Cần nâng cao hiệu quả từ cải cách thuế, hải quan

TĐKT -  Thuế và Hải quan là hai lĩnh vực quan trọng, có tác động lớn đối với sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp tại Việt Nam. Hiệu quả từ cải cách thuế, hải quan hiện nay là vấn đề vô cùng cần thiết. Doanh nghiệp làm thủ tục tại bộ phận một cửa Nhờ những nỗ lực đổi mới, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế và hải quan nên số thu ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2017 của ngành Thuế đạt 1.019.041 tỷ đồng (bằng 105,2% dự toán); ngành Hải quan đạt 297.082 tỷ đồng (tăng 5,04% so với năm 2016). Hai ngành này đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hơn 560.000 doanh nghiệp, lực lượng quan trọng đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Bình quân giai đoạn 2012 – 2017, mỗi năm khu vực này thu hút thêm 15,2% nguồn vốn cho sản xuất, kinh doanh, thu hút hơn 14 triệu lao động. Năm 2017, riêng khối doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp 32,3% cho tăng trưởng kinh tế đất nước. Và một điểm đáng chú ý, trong 3 năm liên tiếp (2014 - 2016), Bộ Tài chính luôn được xếp thứ 2 trong bảng chỉ số cải cách hành chính của các bộ, ngành. Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Nguyễn Văn Nam cho biết: Thời gian qua, Tổng cục Thuế đã triển khai đồng bộ và hiệu quả nhiều giải pháp thực hiện lộ trình cải cách thủ tục hành chính, nhất là việc kê khai thuế điện tử và nộp thuế điện tử, qua đó tạo thuận lợi cho người nộp thuế và nâng cao hiệu quả quản lý thuế. Việc đưa dịch vụ nộp thuế điện tử đến với cộng đồng doanh nghiệp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành Thuế nhằm tạo thuận lợi cho người nộp thuế, góp phần đơn giản hóa thủ tục giấy tờ khi thực hiện nghĩa vụ thuế, xử lý thông tin nộp thuế nhanh chóng, chính xác, đa dạng hóa các kênh thu NSNN. Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan Hoàng Việt Cường cho biết: Để đạt hiệu quả trong thời gian tới thì bản thân các doanh nghiệp cũng phải cải cách, phối hợp chẽ với cơ quan Thuế và Hải quan địa phương để phản ánh kịp thời những khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách mà doanh nghiệp gặp phải trong quá trình thực thi pháp luật để được hướng dẫn, tháo gỡ. Song song với đó là nâng cao vai trò của các hiệp hội trong việc chỉ đạo các bộ phận nghiệp vụ nghiên cứu, nắm chắc các quy định của pháp luật về kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu để không bị động khi làm thủ tục nhập khẩu. Đồng thời, hưởng ứng và hợp tác để thực hiện các giải pháp mà các cục hải quan đã đưa ra nhằm tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, rút ngắn thời gian thông quan. Để đạt được kết quả cao, Bộ Tài chính sẽ đưa ra các giải pháp: Thứ nhất, tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc ban hành và thực thi văn bản quy phạm pháp luật về cải cách thủ tục hành chính, nhất là những văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến thuế và hải quan. Thứ hai, nghiên cứu, sửa đổi Luật Quản lý thuế theo hướng đổi mới phương thức quản lý thuế, đảm bảo mục tiêu kiểm soát tốt các nguồn thu, chống thất thu, giảm nợ đọng thuế trên cơ sở áp dụng phương pháp quản lý rủi ro, ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại và cơ sở dữ liệu đầy đủ về người nộp thuế, cơ sở tính thuế. Thứ ba, sớm hoàn thiện thể chế quản lý tài chính doanh nghiệp và minh bạch thông tin tài chính doanh nghiệp của khu vực ngoài quốc doanh nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả ngành thuế và hải quan. Đơn giản hóa nhiều thủ tục hành chính, đề nghị các bộ, ngành có liên quan xem xét, thu gọn Danh mục hàng hóa thuộc đối tượng kiểm tra chuyên ngành, chi tiết tên hàng, có mã số hồ sơ và có tiêu chuẩn, quy chuẩn cụ thể để kiểm tra, tránh sự chồng chéo giữa các bộ; tránh việc một mặt hàng chịu sự quản lý của nhiều bộ gây mất thời gian, tốn kém chi phí cho doanh nghiệp. Hơn hết, cần phải có cơ chế lắng nghe, tiếp thu ý kiến người dân, doanh nghiệp nhiều hơn nữa, đặc biệt tăng cường đối thoại, trao đổi trực tiếp, đề cao vai trò người đứng đầu các đơn vị thuế nhằm rút dần khoảng cách giữa cơ quan quản lý về thuế, hải quan và cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội. La Giang  

Cần tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho sự phát triển của doanh nghiệp

TĐKT - Ngày 19/6, tại Hà Nội, Tạp chí Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh tổ chức Diễn đàn Phát triển doanh nghiệp Việt Nam 2018. Toàn cảnh Diễn đàn Diễn đàn thu hút hàng trăm đại biểu từ các bộ, ban, ngành, các doanh nghiệp có thành tích cao trong hoạt động xuất khẩu và phát triển thị trường, đại diện các cơ quan trung ương và địa phương, các đơn vị phối hợp, doanh nhân trên cả nước. Tại Diễn đàn, các đại biểu đã trao đổi, thảo luận xung quanh 2 chủ đề: Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển; xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp tại Việt Nam. Chương trình được thiết kế nhằm tạo một diễn đàn đa chiều, thảo luận về tình hình kinh tế, phát triển kinh doanh trên thế giới và Việt Nam, tổ chức sản xuất và cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tăng dần các sản phẩm mang hàm lượng giá trị gia tăng cao, động viên các doanh nghiệp có nhiều nỗ lực hơn trong phát triển kinh tế kinh doanh. Diễn đàn là cơ hội quý báu để các nhà quản lý, lãnh đạo các bộ, ngành, các chuyên gia kinh tế, doanh nghiệp và nhà đầu tư nhìn lại toàn cảnh nền kinh tế và định hướng cho những năm tiếp theo, thảo luận và đối thoại về những nhu cầu, những vấn đề thực tiễn cấp thiết đối với các doanh nghiệp Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp để các doanh nghiệp phát triển bền vững. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, tính chung 4 tháng đầu năm 2018, cả nước có 41.295 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 412 nghìn tỷ đồng, tăng 4,3% về số doanh nghiệp và tăng 11,5% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2017. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 10 tỷ đồng, tăng 6,8%. Nếu tính cả 749 nghìn tỷ đồng của gần 12,2 nghìn lượt doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn bổ sung vào nền kinh tế trong 4 tháng đầu năm 2018 là 1.161 nghìn tỷ đồng. Theo ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban pháp chế (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam), môi trường kinh doanh đã được nâng cao chất lượng một bước đáng kể, đáng ghi nhận; nhận được phản hồi tích cực và đồng thuận từ phía dư luận và cộng đồng doanh nghiệp. Từ đó, niềm tin vào tương lai kinh doanh, khát vọng tham gia thị trường được củng cố và nâng lên một bước quan trọng, thể hiện rõ về việc gia tăng số lượng doanh nghiệp mới đăng ký thành lập. Hàng loạt điều kiện kinh doanh, kiểm tra chuyên ngành và quy định bất hợp lý đã được cơ quan quản lý rà soát, bãi bỏ mang lại sự hỗ trợ và thuận lợi hóa thiết thực đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế cũng bộc lộ một số vấn đề đáng lo ngại, cần nhận diện rõ ràng để khắc phục càng sớm càng tốt. Đó là tình trạng quy mô trung bình của doanh nghiệp dân doanh ngày càng nhỏ, thiếu sức cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập và có sự cạnh tranh gay gắt. Ngoài ra, mức độ tham gia vào hoạt động xuất khẩu quốc gia, kết quả xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp tư nhân cũng thấp hơn hẳn so với các đơn vị thuộc khu vực khác. Hiện doanh nghiệp tư nhân phải đối diện với nhiều yếu tố, quy định bất lợi về điều kiện kinh doanh: Các quy định về diện tích nhà xưởng, trang thiết bị chuyên dùng, quy định về nhân sự trong bộ máy quản lý, điều kiện về vốn hoạt động ... trong nhiều trường hợp lại bị đòi hỏi cao hơn, khắt khe hơn so với các đơn vị FDI hoạt động trong cùng lĩnh vực… TS Trần Thị Hồng Minh - Cục trưởng Cục Quản lý Đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) nhận định: Dù môi trường kinh doanh đã được cải thiện nhiều, song hiện vẫn còn một số khó khăn nhất định. Để giải quyết bài toán này, cần tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2018 và những năm tiếp theo. Nhất là cải cách mạnh hệ thống pháp luật về doanh nghiệp theo hướng đề cao quyền tự do kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho sự phát triển của doanh nghiệp. Đồng thời, đảm bảo trật tự và tính an toàn của môi trường đầu tư kinh doanh, cần phải có những giải pháp quyết liệt hơn trong công tác hậu kiểm… Phương Linh  

Trang