Kinh tế

Tổng thu ngân sách Nhà nước quý I/2022 ước đạt 460,6 nghìn tỷ đồng

TĐKT - Tình hình kinh tế - xã hội 3 tháng đầu năm gặp nhiều khó khăn, thách thức, dịch bệnh diễn biến phức tạp, số ca mắc Covid-19 tăng trở lại ở nhiều địa phương; kết hợp với ảnh hưởng tiêu cực của cuộc xung đột vũ trang giữa Nga và Ukraine đẩy giá dầu và giá một số nguyên liệu đầu vào tăng cao. Đồng thời, việc triển khai thực hiện các giải pháp miễn, giảm thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân nhằm hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội và Nghị định số 15/2022/NĐ-CP của Chính phủ đã ảnh hưởng đến số thu ngân sách trong quý I năm 2022 và những tháng tới. Tổng thu NSNN quý I/2022 ước đạt 460,6 nghìn tỷ đồng Cụ thể, tổng thu ngân sách Nhà nước (NSNN) quí I ước đạt 460,6 nghìn tỷ đồng, bằng 32,6% dự toán, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm 2021; trong đó: thu nội địa đạt 31,9% dự toán, tăng 4% so với cùng kỳ năm 2021; thu từ dầu thô đạt 52,3% dự toán, tăng 67,6%; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 35,5% dự toán, tăng 23,3%. Có 9/12 khoản thu nội địa đạt tiến độ khá (trên 25% dự toán), phản ánh hiệu quả của công tác phòng, chống dịch và các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân bị ảnh hưởng của dịch bệnh, thúc đẩy phục hồi kinh tế đã phát huy tác dụng, hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp được phục hồi; một số ngành có đóng góp số thu lớn cho ngân sách tăng trưởng khá (như: sản xuất thiết bị điện, trang phục, da, sản phẩm điện tử, máy tính...). Một số khoản thu tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2021 như: Thuế thu nhập cá nhân tăng 20,7%, chủ yếu nhờ tăng thu từ các hoạt động chuyển nhượng bất động sản, chứng khoán...; thuế bảo vệ môi trường tăng 7,1% do tiêu thụ xăng dầu trong quý I tăng; lệ phí tăng 4,7% nhờ tăng thu lệ phí trước bạ ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước, nhà đất; thu tiền cho thuê đất tăng 26,9%; thu tiền sử dụng đất tăng 21% so với cùng kỳ năm 2021... Tuy nhiên, các khoản thu trực tiếp từ hoạt động sản xuất - kinh doanh, mặc dù đạt khá so dự toán, nhưng vẫn thấp hơn so cùng kỳ năm 2021. Có 3 khoản thu tiến độ đạt thấp là thu cấp quyền khai thác khoáng sản (đạt 17,4% dự toán); thu quỹ đất công ích và hoa lợi công sản khác (đạt 22,5%) và thu hồi vốn, thu cổ tức, lợi nhuận, lợi nhuận sau thuế, chênh lệch thu, chi của Ngân hàng Nhà nước (đạt 22,8% dự toán) chủ yếu do chưa phát sinh thu tiền bán vốn NSNN đầu tư tại các doanh nghiệp. Tổng chi NSNN quý I đạt 351,3 nghìn tỷ đồng, bằng 19,7% dự toán, trong đó: chi đầu tư phát triển đạt 11,88% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao; chi trả nợ lãi đạt 28,8% dự toán; chi thường xuyên đạt 23,4% dự toán. Các nhiệm vụ chi ngân sách được thực hiện theo dự toán và tiến độ triển khai nhiệm vụ chuyên môn của các đơn vị sử dụng ngân sách, đáp ứng các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước và thanh toán các khoản nợ đến hạn, đảm bảo kinh phí phòng, chống dịch, các nhiệm vụ chi an sinh xã hội, chăm lo cho các đối tượng hưởng lương, lương hưu và trợ cấp xã hội từ NSNN. Ngân sách trung ương đã chi từ dự phòng bổ sung cho các địa phương 913 tỷ đồng kinh phí phòng, chống dịch Covid-19 và hỗ trợ người dân gặp khó khăn do dịch Covid-19, hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh theo quy định. Bên cạnh đó, đã thực hiện xuất cấp 27,19 nghìn tấn gạo dự trữ quốc gia để khắc phục hậu quả mưa lũ, cứu trợ, cứu đói cho nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán và giáp hạt đầu năm. Riêng về chi đầu tư phát triển, tổng số kế hoạch vốn năm 2022 Thủ tướng Chính phủ đã giao là 518,1 nghìn tỷ đồng, các địa phương đã giao tăng khoảng 39,9 nghìn tỷ đồng so với kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (từ các nguồn tăng thu, kết dư ngân sách địa phương…). Đến hết quý I, các bộ, cơ quan trung ương đã phân bổ chi tiết kế hoạch vốn đạt 97,86% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao. Do vốn của các Chương trình Mục tiêu Quốc gia chưa được giao kế hoạch và một số dự án khởi công mới đang trong giai đoạn hoàn thiện thủ tục đầu tư, đấu thầu, chấm thầu, thương thảo hợp đồng,... nên tiến độ giải ngân vốn quý I chậm, nhất là vốn ngoài nước chỉ đạt xấp xỉ 1% kế hoạch. Cân đối ngân sách trung ương và ngân sách các cấp địa phương được đảm bảo. Tính đến ngày 25/3/2022, đã thực hiện phát hành 41,3 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, với kỳ hạn bình quân 15,85 năm, lãi suất bình quân 2,39%/năm. Hồng Thiết

Tiếp tục hoàn thiện pháp luật và tăng cường quản lý giám sát để phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp an toàn, hiệu quả

TĐKT - Thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) thời gian qua đã có bước phát triển nhanh để trở thành kênh huy động vốn trung, dài hạn của doanh nghiệp theo đúng chủ trương của Nhà nước về phát triển cân bằng thị trường vốn, giảm dần sự phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, tốc độ phát triển nhanh của thị trường trái phiếu cũng đã phát sinh những rủi ro ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường cần được quản lý, giám sát chặt chẽ và có biện pháp xử lý. Xử lý nghiêm các doanh nghiệp "lách luật" trong phát hành trái phiếu Bộ Tài chính thường xuyên bám sát các diễn biến của thị trường để phân tích, đánh giá và điều chỉnh pháp luật cho phù hợp. Luật Chứng khoán năm 2019, Luật Doanh nghiệp năm 2020 được áp dụng từ 1/1/2021 và các Nghị định hướng dẫn đã quy định quản lý tách biệt giữa phát hành riêng lẻ với phát hành TPDN ra công chúng. Theo đó, TPDN phát hành riêng lẻ chỉ được bán cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp theo hình thức tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm, cơ quan quản lý không cấp phép phát hành. Doanh nghiệp phát hành phải thực hiện  công bố thông tin đầy đủ, trung thực cho nhà đầu tư, công bố thông tin cho Sở Giao dịch chứng khoán, đồng thời có trách nhiệm sử dụng vốn đúng mục đích, hoàn trả gốc và lãi trái phiếu đúng hạn; các văn bản pháp luật cũng quy định rõ trách nhiệm của tổ chức tư vấn phát hành và các tổ chức cung cấp dịch vụ trong việc cung cấp thông tin minh bạch và tuyệt đối tuân thủ quy định của pháp luật. Trong bối cảnh thị trường có dấu hiệu phát triển nóng, Bộ trưởng Bộ Tài chính liên tục chỉ đạo các cơ quan chức năng thuộc ngành Tài chính tăng cường công tác thanh tra, giám sát, nhằm chấn chỉnh và xử lý nghiêm các vi phạm trong hoạt động phát hành và cung cấp dịch vụ về TPDN. Từ năm 2019, Bộ Tài chính đã triển khai trên 30 đoàn kiểm tra tại các doanh nghiệp phát hành, công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại. Qua kiểm tra, cơ quan quản lý đã tiến hành xử phạt vi phạm hành chính và yêu cầu các biện pháp khắc phục hậu quả tại hai doanh nghiệp là VsetGroup và Apec Group; đồng thời xử phạt Công ty Chứng khoán VIS. Bộ Tài chính cũng chỉ đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước phối hợp, cung cấp tài liệu cho cơ quan chức năng để xem xét các trường hợp vi phạm. Mới đây nhất, ngày 3/4/2022, căn cứ hồ sơ, tài liệu và đề nghị của cơ quan có thẩm quyền về việc hủy bỏ 9 đợt phát hành trái phiếu của Công ty Ngôi Sao Việt, Công ty Cung điện Mùa đông, Công ty Soleil thuộc Tập đoàn Tân Hoàng Minh do có hành vi công bố thông tin sai sự thật, che giấu thông tin trong hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã ban hành Quyết định số 181/QĐ-UBCK hủy bỏ 9 đợt chào bán nêu với tổng trị giá 10.030 tỷ đồng. Bộ Tài chính cũng đang chỉ đạo UBCKNN kiểm tra các tổ chức tư vấn phát hành, đại lý phát hành và các tổ chức cung cấp dịch vụ cho các đợt chào bán của 3 công ty nêu trên, trường hợp phát hiện vi phạm sẽ xử lý nghiêm theo đúng thẩm quyền và quy định của pháp luật. Để nâng cao chất lượng báo cáo tài chính, Bộ trưởng Bộ Tài chính cũng đã chỉ đạo các đơn vị chức năng tăng cường, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kiểm toán. Trường hợp phát hiện các hành vi vi phạm nghiêm trọng yêu cầu khẩn trương chuyển cơ quan công an xử lý nghiêm minh. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Bộ Tài chính đã thường xuyên cảnh báo các rủi ro trên thị trường và đưa ra các khuyến nghị đối với từng đối tượng tham gia trên thị trường TPDN. Theo đó: Đối với các nhà đầu tư, cần phải hiểu biết mình là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp theo đúng quy định của pháp luật, đánh giá được đầy đủ rủi ro khi đầu tư vào TPDN, không nên mua trái phiếu thông qua chào mời của các tổ chức cung cấp dịch vụ khi chưa tìm hiểu kỹ về tình hình tài chính của doanh nghiệp phát hành và các điều kiện, điều khoản của trái phiếu. Nhà đầu tư cũng cần lưu ý việc các tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán phân phối TPDN không có nghĩa là các tổ chức này đảm bảo an toàn cho việc mua trái phiếu. Trong trường hợp mua trái phiếu thông qua các hợp đồng đầu tư là không có căn cứ pháp lý theo quy định của pháp luật về phát hành trái phiếu, nhà đầu tư sẽ không phải là chủ sở hữu trái phiếu và không có quyền lợi đối với trái phiếu theo các cam kết của doanh nghiệp phát hành. Nhà đầu tư cũng cần đặc biệt lưu ý, quy định hiện hành chỉ cho phép nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp được mua và giao dịch TPDN riêng lẻ. Theo đó, mọi hành vi gian lận để trở thành nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp không chỉ khiến nhà đầu tư chịu nhiều rủi ro, tổn thất khi mua trái phiếu (có thể mất toàn bộ tiền đầu tư) mà còn là hành vi vi phạm pháp luật. Cơ quan quản lý nhà nước sẽ thực hiện thanh kiểm tra để xử lý nghiêm minh những hành vi lách quy định này của pháp luật. Đối với các doanh nghiệp huy động TPDN với khối lượng lớn, lãi suất cao vượt quá năng lực tài chính của doanh nghiệp là rất rủi ro khi hoạt động sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn thì doanh nghiệp sẽ không có khả năng thanh toán gốc, lãi trái phiếu theo cam kết trái phiếu. Các doanh nghiệp phát hành cần lưu ý việc vi phạm quy định về công bố thông tin, sử dụng vốn sai mục đích đã công bố ngoài việc bị xử lý vi phạm theo quy định có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu gây thiệt hại cho nhà đầu tư. Đối với các tổ chức cung cấp dịch vụ cần tuyệt đối tuân thủ pháp luật trong việc cung cấp thông tin đầy đủ, minh bạch, chính xác cho nhà đầu tư, đảm bảo tư vấn để doanh nghiệp phát hành tuân thủ quy định của pháp luật; xác định đúng đối tượng nhà đầu tư chuyên nghiệp mua trái phiếu. Việc tổ chức cung cấp dịch vụ (công ty chứng khoán, NHTM) chào mời, phân phối TPDN cho nhà đầu tư không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp hoặc dùng các hình thức lách quy định của pháp luật cũng sẽ bị xử phạt nghiêm minh. Sau 1 năm triển khai các quy định mới về phát hành TPDN tại Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp và các Nghị định hướng dẫn, trước tình hình thị trường vẫn phát sinh những rủi ro mới, quy định của pháp luật cần tiếp tục điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn, khắc phục, loại bỏ những rủi ro mới phát sinh. Bộ Tài chính đã đánh giá, rà soát và xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 153/2020/NĐ-CP theo hướng tăng cường tính công khai, minh bạch, giảm thiểu các rủi ro phát sinh nhằm mục tiêu phát triển thị trường TPDN bền vững. Đồng thời kiến nghị Chính phủ, Quốc hội tiếp tục sửa Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp vào thời gian tới. Một số chính sách đang đề xuất bao gồm: Thứ nhất, thu hẹp quy định về mục đích phát hành trái phiếu nhằm hạn chế việc chuyển nhượng vốn lòng vòng, gây thiếu minh bạch và khó khăn cho nhà đầu tư khi đánh giá rủi ro của trái phiếu và doanh nghiệp phát hành; thứ hai, hướng dẫn cụ thể về điều kiện phát hành và hồ sơ chào bán trong đó có yêu cầu về tỷ lệ an toàn tài chính khi phát hành trái phiếu, tổ chức đại diện người sở hữu trái phiếu. Thứ ba, quy định rõ loại trái phiếu nhà đầu tư cá nhân được mua và giao dịch nhằm định hướng nhà đầu tư các nhân mua các TPDN có tính an toàn và công khai, minh bạch hơn. Thứ tư, bổ sung các quy định để đẩy nhanh việc thiết lập thị trường giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại Sở Giao dịch Chứng khoán cho các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và bổ sung quy định về trách nhiệm của các tổ chức cung cấp dịch vụ nhằm chấn chỉnh các tổ chức cung cấp dịch vụ và nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp. Dự thảo Nghị định đã lấy ý kiến rộng rãi qua cổng thông tin điện tử Chính phủ, cổng thông tin của Bộ Tài chính, ý kiến của các Bộ, ngành liên quan, ý kiến bằng văn bản và đối thoại trực tiếp với thành viên thị trường. Hiện nay, Nghị định đang được hoàn thiện để gửi Bộ Tư pháp thẩm định trình Chính phủ ban hành. Trong thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục tăng cường công tác quản lý giám sát, thanh, kiểm tra các hoạt động liên quan đến phát hành, cung cấp dịch vụ về TPDN của các công ty chứng khoán, doanh nghiệp phát hành và các tổ chức cung cấp dịch vụ để phát hiện và xử lý nghiệm các hành vi vi phạm, tăng cường tính minh bạch của thị trường để đảm bảo thị trường TPDN trở thành một kênh huy động vốn quan trọng, hiệu quả cho doanh nghiệp. Hồng Thiết

Tổng cục Thuế thực hiện tốt nhiệm vụ công tác thuế quý I/2022

TĐKT - Quý I/2022, tổng thu ngân sách Nhà nước (NSNN) do cơ quan thuế quản lý ước đạt 389.320 tỷ đồng, bằng 33,1% so với dự toán pháp lệnh, bằng 105,3% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, thu nội địa ước đạt 374.581 tỷ đồng, bằng 32,7% so với dự toán, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2021. Thu từ dầu thô ước đạt 14.739 tỷ đồng, bằng 52,3% so với dự toán, tăng 67,6% so với cùng kỳ. Kết quả đạt được So với dự toán có 16/19 khoản thu, sắc thuế đạt khá (trên 25%), trong đó một số khoản thu lớn như: Khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) ước đạt 27,5%; doanh nghiệp (DN) có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 30%; khu vực công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh ước đạt 34%; thuế thu nhập cá nhân (TNCN) ước đạt 43,3%; thuế bảo vệ môi trường (BVMT) ước đạt 25,9%; thu lệ phí trước bạ ước đạt 30,3%; thu phí, lệ phí ước đạt 27,3%; thu tiền sử dụng đất ước đạt 38%...   Tổng Cục trưởng Tổng cục Thuế Cao Anh Tuấn phát biểu So với cùng kỳ, có 11/19 khoản thu, sắc thuế có mức tăng trưởng đó là: Thuế TNCN ước tăng 20,6%; thuế BVMT ước tăng 7,1%; lệ phí trước bạ ước tăng 5,1%; phí - lệ phí ước tăng 4,2%; thu tiền cho thuê đất ước tăng 26,9%; thu tiền sử dụng đất ước tăng 21%. Thu ngân sách quý I/2022 đạt khá về tiến độ thực hiện dự toán và tăng so cùng kỳ là do tình hình dịch bệnh trên cả nước tiếp tục được kiểm soát, hoạt động sản xuất, kinh doanh hồi phục. Các chính sách hỗ trợ của Chính phủ đã và đang phát huy tác dụng tốt, các DN đã có sự tăng tốc hoạt động sản xuất, kinh doanh. Số DN thành lập mới và quay trở lại hoạt động trong quý I/2022 tăng 36,7% so với cùng kỳ năm trước (bình quân một tháng có 20 nghìn DN thành lập mới và quay trở lại hoạt động); tổng vốn đăng ký vào nền kinh tế tăng 21%, trong đó vốn đăng ký tăng thêm của các DN đang hoạt động tăng 34,5%. Khu vực dịch vụ trong quý I/2022 tăng trưởng khởi sắc khi nhiều hoạt động dịch vụ sôi động trở lại. Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của quý I năm nay như sau: Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 9,75% so với cùng kỳ năm trước; ngành vận tải, kho bãi tăng 7,06%; ngành bán buôn và bán lẻ tăng 2,98%. Bên cạnh việc các DN đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh và đóng góp lớn cho ngân sách thì có được kết quả trên là do ngành thuế đã triển khai đồng bộ các giải pháp quản lý. Tính đến ngày 14/3/2022, toàn ngành Thuế đã thực hiện được 4.890 cuộc thanh, kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế (NNT) và kiểm tra được 90.503 hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế, bằng 113,32% so với cùng kỳ năm 2021. Tổng số tiền kiến nghị xử lý qua thanh tra, kiểm tra là 4.255 tỷ đồng  trong đó: tổng số thuế tăng thu qua thanh tra, kiểm tra là 1.050,2 tỷ đồng; giảm khấu trừ là 237,8 tỷ đồng; giảm lỗ là 2.967,1 tỷ đồng.  Trong 3 tháng đầu năm 2022, toàn ngành Thuế đã thu được 7.250 tỷ đồng tiền nợ thuế. Cơ quan thuế các cấp đã thực hiện xử lý khoanh nợ tiền thuế, xóa nợ tiền chậm nộp không còn khả năng nộp NSNN theo Nghị quyết 94/2019/QH14 ước đạt 150 tỷ đồng. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 01 và chương trình hành động của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế tiếp tục triển khai các giải pháp cải cách thủ tục hành chính thuế; triển khai theo đúng tiến độ các dự án công nghệ thông tin; tiếp tục duy trì, triển khai khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế điện tử; triển khai hóa đơn điện tử... Triển khai hóa đơn điện tử (HĐĐT) Tổng cục Thuế đã ban hành Quyết định số 1417/QĐ-TCT ngày 27/09/2021 về kế hoạch triển khai áp dụng hóa đơn điện tử tại 06 tỉnh, thành phố gồm: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bình Định, Phú Thọ và công bố triển khai HĐĐT tại Tổng cục Thuế và c6 Cục Thuế nêu trên. Hệ thống 7 Trung tâm điều hành triển khai HĐĐT tại Tổng cục Thuế và 6 Cục Thuế đã và đang vận hành, hoạt động thông suốt, được bố trí đường dây nóng và cán bộ trực hỗ trợ trong và ngoài giờ hành chính để đảm bảo trao đổi thường xuyên, kịp thời giải đáp, tháo gỡ vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện. Đến hết ngày 20/03/2022, đã có 437.453 DN đăng ký và sử dụng HĐĐT theo quy định. Triển khai tiếp HĐĐT giai đoạn 2, Bộ trưởng Tài chính đã ban hành Quyết định số 206/QĐ-BTC ngày 26/02/2022 và có công văn gửi Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực trực thuộc trung ương về việc triển khai phối hợp áp dụng HĐĐT tại 57 tỉnh, thành phố còn lại. Căn cứ Quyết định của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế đã ban hành Quyết định số 273/QĐ-TCT ngày 14/03/2022 về kế hoạch chi tiết triển khai áp dụng HĐĐT tại 57 tỉnh, thành phố. Đồng thời, gấp rút triển khai các công việc cụ thể như: Triển khai hạ tầng kỹ thuật CNTT phục vụ triển khai mở rộng trên toàn quốc; kiện toàn nhân sự Ban Chỉ đạo, Tổ thường trực triển khai HĐĐT tại Tổng cục Thuế và chỉ đạo 57 Cục Thuế địa phương thành lập Ban chỉ đạo, Tổ triển khai, Trung tâm điều hành HĐĐT tại địa phương; hoàn thiện thể chế chính sách, quy trình nghiệp vụ HĐĐT; tổ chức tập huấn, tuyên truyền cho NTT và cơ quan thuế; giám sát thực hiện và đẩy nhanh các công tác chuẩn bị để có thể triển khai trên toàn quốc từ tháng 4/2022. Giải pháp trọng tâm trong thời gian tới Tổng Cục trưởng Tổng cục Thuế Cao Anh Tuấn nhấn mạnh thu ngân sách quý I đạt kết quả tương đối khả quan. Tuy nhiên, các đơn vị cần tiếp tục rà soát kỹ nắm bắt từng nguồn thu, sắc thuế chi tiết đến từng tháng, từng khu vực, sắc thuế để đánh giá dự báo sát diễn biến, tình hình thu, từ đó tham mưu cho lãnh đạo Tổng cục Thuế phương án điều hành ngân sách cho phù hợp. Đặc biệt trong bối cảnh từ 1/4/2022, thuế bảo vệ môi trường đối với mặt hàng xăng, dầu diesel, dầu mazut, dầu nhờn giảm 50% và giảm 70% đối với mặt hàng dầu hỏa sẽ làm nguồn thu ngân sách giảm trên 20.000 tỷ đồng. Đối với công tác quản lý nợ, cơ quan thuế các cấp cần chủ động phân tích nguyên nhân từng khoản nợ thuế, tính chất nợ tại các địa phương để Tổng cục có giải pháp xử lý, thu hồi nợ thuế hiệu quả. Bên cạnh đó, Vụ Quản lý nợ cần tận dụng tối đa các ứng dụng công nghệ thông tin sẵn có, đẩy nhanh tiến độ xử nợ chủ động đề xuất phương án tháo gỡ kịp thời. Ngoài ra, cần sớm tổ chức sơ kết đánh giá tình hình, kết quả triển khai thực hiện xử lý khoanh nợ, xóa nợ theo Nghị quyết số 94 của Quốc hội. Tổng Cục trưởng Cao Anh Tuấn cũng yêu cầu, các Cục Thuế khẩn trương hoàn thành các cuộc thanh kiểm tra còn tồn từ năm 2021 chuyển sang và triển khai thực hiện thanh kiểm tra theo kế hoạch năm 2022 đã được phê duyệt, đồng thời tổ chức triển khai thực hiện thanh, kiểm tra theo chuyên đề hoàn thuế GTGT đối với các DN rủi ro cao về thuế. Về triển khai đề án HĐĐT giai đoạn 2 trên phạm vi cả nước. Đây là nhiệm vụ quan trọng của toàn ngành trong quý II năm 2022. Để chuẩn bị triển khai chính thức Lễ công bố triển khai áp dụng HĐĐT trên cả nước dự kiến vào giữa tháng 4/2022 đề nghị các đơn vị khẩn trương đẩy nhanh tiến độ triển khai các nhiệm vụ cấp bách phải thực hiện tại Tổng cục Thuế và các Cục Thuế (57 cục còn lại thuộc giai đoạn 2) theo đúng tiến độ, thời gian quy định; đồng thời, các vụ, đơn vị cần gấp rút, khẩn trương chuẩn bị các nội dung công việc để tổ chức buổi Lễ sơ kết HĐĐT giai đoạn 1 và công bố triển khai giai đoạn 2 đảm bảo chu đáo, thành công. Trong thời gian tới, cơ quan thuế sẽ khẩn trương đẩy nhanh tiến độ triển khai đề án máy tính tiền và đề án phát hành xổ số kiến thiết theo mã hóa đơn để khuyến khích người tiêu dùng lấy hóa đơn khi mua bán hàng hóa. Qua đó góp phần giúp ngành thuế hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Hồng Thiết

Khai mạc Hội nghị khoa học và Triển lãm về Điều khiển và Tự động hóa lần thứ 6

TĐKT - Ngày 8/4, tại TP Hồ Chí Minh, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) đã phối hợp với Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh tổ chức khai mạc Hội nghị khoa học và Triển lãm về Điều khiển và Tự động hóa lần thứ 6 với chủ đề “Tự động hoá trong Chương trình chuyển đổi số quốc gia: Thông minh và sáng tạo”. Các đại biểu cắt băng khai mạc Hội nghị khoa học và Triển lãm về Điều khiển và Tự động hóa lần thứ 6 Trong 2 ngày 8 và 9/4, hội nghị khoa học và triển lãm sẽ diễn ra với 3 hoạt động chính nhằm kết nối và khai thác có hiệu quả sự liên kết giữa nhà quản lý, nhà khoa học và doanh nghiệp. Đó là, Hội nghị khoa học, Triển lãm quốc tế và Diễn đàn doanh nghiệp. TS. Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Chủ tịch Hội Tự động hóa Việt Nam cho biết, năm nay, mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19 nhưng Hội nghị khoa học và Triển lãm về Điều khiển và Tự động hóa lần thứ 6 vẫn có quy mô lớn nhất từ trước đến nay với 138 báo cáo khoa học đến từ các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp. Theo đó, diễn đàn khoa học thu hút các doanh nghiệp tham gia với 5 phiên: TP thông minh chuyển đổi số trong doanh nghiệp sản xuất; nông nghiệp thông minh; năng lượng tái tạo và khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Cùng với đó là các gian hàng triển lãm giới thiệu sản phẩm công nghệ của các doanh nghiệp, đơn vị sáng tạo, ứng dụng thành công. Phát biểu tại chương trình, Bộ trưởng Bộ Khoa học – Công nghệ Huỳnh Thành Đạt đánh giá, qua 10 năm triển khai, Hội nghị khoa học và triển lãm quốc tế về Điều khiển và Tự động hóa đã định hình rõ nét là một diễn đàn khoa học uy tín thuộc lĩnh vực điều khiển và tự động hóa. Nêu bật vai trò của lĩnh vực điều khiển và tự động hóa đối với ngành khoa học công nghệ, đồng chí Huỳnh Thành Đạt cho biết, mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định ban hành danh mục gồm 99 công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển. Trong đó, có khoảng 20 công nghệ thuộc lĩnh vực tự động hóa và danh mục 107 sản phẩm công nghệ cao được khuyến khích đầu tư phát triển với khoảng 30 sản phẩm thuộc lĩnh vực tự động hóa. Trong các chương trình khoa học công nghệ cấp quốc gia giai đoạn đến năm 2030, công nghệ tự động hóa cũng thuộc nhóm các lĩnh vực được ưu tiên nghiên cứu, là cấu phần quan trọng trong nhiều Chương trình khoa học công nghệ cấp quốc gia. Trong đó, có chương trình phát triển công nghệ cao đến năm 2030; chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2030; chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2030; chương trình quốc gia nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của Doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2030; các chương trình khoa học công nghệ trọng điểm cấp quốc gia về cơ khí và tự động hóa, vật liệu, năng lượng, hỗ trợ nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ của công nghiệp 4.0… Phương Thanh

Trường Sinh group giới thiệu các sản phẩm thực phẩm bảo vệ sức khỏe

TĐKT - Ngày 1/4, tại Hà Nội, Công ty TNHH Phát triển Khoa học Quốc tế Trường Sinh gặp gỡ báo chí giới thiệu các sản phẩm thực phẩm bảo vệ sức khỏe do công ty sản xuất. Trường Sinh group gặp gỡ báo chí giới thiệu các sản phẩm Dịch Covid-19 bùng phát từ năm 2020 đến nay, Trường Sinh Group đã tích cực triển khai nghiên cứu và sau khi được Cục An toàn Thực phẩm của Bộ Y tế cấp phép, Trường Sinh Group đã sản xuất và cấp hàng trăm ngàn sản phẩm đến các tuyến đầu chống dịch và các bệnh nhân điều trị tại các bệnh viện dã chiến, hỗ trợ công tác phòng, chống dịch tại nhiều địa phương. Các sản phẩm của Trường Sinh như TS Anco và Trường Sinh Thảo là các sản phẩm được sản xuất theo bài thuốc từ y dược cổ truyền do Tập đoàn Trường Sinh nghiên cứu điều chế từ các loại dược liệu an toàn, lành tính như: Xuyên tâm liên, hoa đu đủ đực, mật nhân, nghệ đen, tam thất, trần bì, cam thảo, hoa ngũ sắc, cây mật gấu, hoàng đắng... đều là những loại dược liệu có dược tính cao, chứa các hoạt chất như: Coumestans, Berberib, Palmatint, Lignan, Terpene, Steroid, vitamin, alkaloid, quassinoid, glucoginsenosid, saponin, alcoloid... Chính những hoạt chất này giúp F0 loại bỏ ho, ho đờm, khản tiếng, đau họng, nâng cao thể trạng. Trường Sinh group ký kết hợp đồng phân phối sản phẩm với các đối tác Tất cả các sản phẩm bảo vệ sức khỏe của Trường Sinh group đều tuân thủ theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của ngành Y tế, trước khi lưu hành ra thị trường đều trải qua quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và cấp phép theo quy định. PV

Thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số

TĐKT - Ngày 31/3/2022, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã ký ban hành Quyết định số 411/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Chiến lược xác định phát triển số với việc tạo tăng trưởng dựa trên yếu tố đầu vào là công nghệ số và dữ liệu số, trở thành một trong những phương thức phát triển chủ đạo mới để Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, bao trùm, thích ứng và kiên cường trước các thử thách trong thế giới nhiều biến động khó dự báo trước. Phát triển kinh tế số giúp người dân giàu có hơn, góp phần đưa Việt Nam vượt qua mức thu nhập trung bình thấp vào năm 2025, đạt mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và đạt mức thu nhập cao vào năm 2045. Phát triển xã hội số giúp người dân hạnh phúc hơn, tham gia các hoạt động xã hội toàn diện hơn, thụ hưởng các chính sách an sinh xã hội thuận lợi hơn, góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia số an toàn, nhân văn và rộng khắp. Các mục tiêu cơ bản về phát triển kinh tế số đến năm 2025 gồm có: Tỷ trọng kinh tế số đạt 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; tỷ trọng thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ đạt trên 10%; tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng hợp đồng điện tử đạt trên 80%; tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nền tảng số đạt trên 50%; tỷ lệ nhân lực lao động kinh tế số trong lực lượng lao động đạt trên 2%. Với phát triển xã hội số, Chiến lược nêu rõ, phát triển xã hội số đi đôi với tạo dựng các giá trị văn hóa phù hợp với thời đại số, tạo điều kiện cho mọi người tiếp cận, tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa thế giới, làm giàu đời sống tinh thần của người Việt Nam. Phát huy sự sáng tạo của người dân trong xã hội số, đồng thời bảo vệ người dân trước các mối nguy cơ, đe dọa trong xã hội số. Chiến lược đặt mục tiêu đến năm 2025 tỷ lệ dân số trưởng thành có smartphone đạt 80%; tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên có tài khoản giao dịch thanh toán tại ngân hàng hoặc tổ chức được phép khác đạt 80%; tỷ lệ dân số trưởng thành có chữ ký số hoặc chữ ký điện tử cá nhân đạt trên 50%; tỷ lệ người dân trong độ tuổi lao động được đào tạo kỹ năng số cơ bản đạt trên 70%... Chiến lược xác định thể chế, hạ tầng, nhân lực, người dân, doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng cho phát triển kinh tế số và xã hội số. Chiến lược nêu ra 17 nhóm nhiệm vụ và 08 nhóm giải pháp để đưa công nghệ số và dữ liệu số thấm sâu một cách tự nhiên mặc định vào mọi mặt sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của người dân. Bộ Thông tin và Truyền thông được giao chủ trì thúc đẩy phát triển kinh tế số và xã hội số; hướng dẫn, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương tổ chức triển khai thực hiện Chiến lược và định kỳ hàng năm tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình thực hiện. Nguyệt Hà  

Triển khai Chiến dịch con rồng Mê Kông giai đoạn 4 từ 15/4/2022

TĐKT - Chiến dịch con rồng Mê Kông do Hải quan Việt Nam và Hải quan Trung Quốc đồng sáng kiến được khởi động từ tháng 9/2018. Đến nay, chiến dịch đã triển khai qua 3 giai đoạn chính và 1 giai đoạn mở rộng với sự tham gia của 20 cơ quan Hải quan và thực thi pháp luật trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Trong đó, đã phát hiện, xử lý 1.203 vụ việc vi phạm vận chuyển trái phép các chất ma túy và động thực vật hoang dã (trong đó có 1.069 vụ việc buôn lậu, vận chuyển trái phép các chất ma túy) đã được thành viên báo cáo và nhập số liệu vào cơ sở hệ thống Mạng luới kiểm soát hải quan toàn cầu (CENcomm). Toàn cảnh Hội nghị trực tuyến Giai đoạn 1 của chiến dịch có 6 thành viên thuộc tiểu vùng sông Mê Kông gồm: Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Campuchia và Myanmar. 9 thành viên tham gia ở giai đoạn 2 gồm: Úc, Bangladesh, Brunei, Hồng Kông, Ấn Độ, Mông Cổ, Nepal, New Zealand, Singapore. Cũng theo thống kê của Cục Điều tra chống buôn lậu, giai đoạn 1 (kết thúc tháng 2/2019) các thành viên đã bắt giữ 164 vụ việc và gần 2.230 kg ma túy. Giai đoạn 2 (kết thúc trong năm 2020), phát hiện, bắt giữ tổng số 284 vụ buôn bán ma túy và động thực vật hoang dã; tang vật thu giữ lên đến gần 2.000 kg và gần 2 triệu viên ma túy các loại; gần 2.000 kg và hơn 1.500 sản phẩm động vật hoang dã, cùng gần 150 tấn và 1.000 m3 gỗ quý hiếm. Để chủ động kiểm soát chặt chẽ, phát hiện kịp thời các hành vi vận chuyển trái phép ma túy, động thực vật hoang dã, các đường dây tội phạm xuyên quốc gia, Hải quan Việt Nam tiếp tục triển khai Chiến dịch con rồng Mê Kông giai đoạn 4 từ ngày từ ngày 15/4 - 15/9/2022. Hội nghị trực tuyến Mê Kông giai đoạn 3 Giai đoạn 3 của chiến dịch: Cục Điều tra chống buôn lậu (Tổng cục Hải quan) - đơn vị đầu mối triển khai chiến dịch của Hải quan Việt Nam cho biết, để chủ động kiểm soát chặt chẽ, phát hiện kịp thời các hành vi vận chuyển trái phép ma túy, động thực vật hoang dã, các đường dây tội phạm xuyên quốc gia, đầu năm 2021, Hải quan Việt Nam và Hải quan các nước điều phối tiếp tục triển khai Chiến dịch con rồng Mê Kông giai đoạn 3. Chia sẻ về về kết quả thực hiện Chiến dịch con rồng Mê Kông giai đoạn 3, Cục trưởng Cục Điều tra chống buôn lậu  - ông Nguyễn Hùng Anh cho hay, chiến dịch có sự tham gia của 23 cơ quan thực thi pháp luật từ 20 quốc gia thành viên và vùng lãnh thổ ở châu Á - Thái Bình Dương. Trong giai đoạn hành động của chiến dịch giai đoạn 3 đã ghi nhận bắt giữ 868 vụ việc, trong đó có 756 vụ bắt giữ ma túy và tiền chất bất hợp pháp; 112 vụ bắt giữ động vật hoang dã, buôn bán gỗ vi phạm Công ước CITES. Nhờ kết quả đó, ngày 30/11/2021, Hải quan Việt Nam đã được nhận Giải thưởng Kiểm soát môi trường châu Á, với hạng mục Hợp tác cùng với Hải quan Trung Quốc và Hải quan Thái Lan trong cơ chế hoạt động của Chiến dịch con rồng Mê Kông giai đoạn 3. Trên cơ sở những kết quả đáng ghi nhận đã đạt được trong Chiến dịch con rồng Mê Kông giai đoạn 3, Tổng cục Hải quan vừa có văn bản chỉ đạo các Cục Hải quan địa phương triển khai Chiến dịch con rồng Mê Kông giai đoạn 4 (từ ngày 15/4 - 15/9/2022). Theo đó, để thể hiện vai trò chủ động nước nêu sáng kiến của Hải quan Việt Nam cũng như triển khai thực hiện thành công chiến dịch trong giai đoạn 4, Tổng cục Hải quan yêu cầu các đơn vị tổ chức quán triệt, nâng cao nhận thức, phân công nhiệm vụ cho các đơn vị thuộc và trực thuộc để triển khai có hiệu quả. Cụ thể, các đơn vị tăng cường thu thập thông tin về tình hình, phương thức, thủ đoạn buôn lậu, vận chuyển trái phép ma túy và các loài động thực vật hoang dã để phân tích rủi ro, nhằm xác định trọng điểm, cảnh bảo rủi ro phục vụ hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan. Hồng Thiết

Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings khẳng định xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam ở mức BB, triển vọng từ “Tích cực”

TĐKT - Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings khẳng định xếp hạng mức trần tiền gửi ngoại tệ dài hạn của Việt Nam ở mức BB, triển vọng “Tích cực”. Cơ sở tổ chức Fitch Ratings khẳng định giữ nguyên xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam phản ánh các chỉ số tài chính đối ngoại vững chắc so với các nước cùng xếp hạng, triển vọng phục hồi tăng trưởng mạnh mẽ trong trung hạn của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch vẫn phức tạp và hiệu ứng lan tỏa của xung đột địa chính trị gần đây đối với kinh tế toàn cầu. Fitch Ratings ghi nhận sự phục hồi kinh tế nhanh chóng của VIệt Nam Fitch Ratings ghi nhận sự phục hồi nhanh chóng của các hoạt động kinh tế nhờ vào chính sách linh hoạt của Chính phủ trong việc ứng phó với đại dịch và tốc độ bao phủ vắc xin nhanh chóng. Fitch đánh giá Việt Nam tiếp tục hưởng lợi từ lĩnh vực xuất khẩu nhờ vào việc thực hiện các hiệp định thương mại quan trọng, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn duy trì tăng trưởng cao và dòng chảy du lịch đang dần nối lại từ năm 2022. Theo dự báo của Fitch, tăng trưởng của Việt Nam sẽ phục hồi lên mức 6,1% vào năm 2022 và 6,3% vào năm 2023, dẫn dắt bởi sự phục hồi của cầu trong nước, xuất khẩu và dòng vốn FDI. Fitch ghi nhận việc ban hành gói kích thích tài khóa - tiền tệ để triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội nhờ vào thành công của Việt Nam trong việc ổn định nợ công, tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam trong trung hạn, dự trữ ngoại hối được bồi đắp trong thời gian qua đang đạt mức cao kỷ lục, tạo bộ đệm để Việt Nam ứng phó với các cú sốc từ bên ngoài. Fitch Ratings dự báo các nỗ lực duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tốc độ tăng trưởng cao, giảm chênh lệch GDP bình quân đầu người so với các nước cùng xếp hạng với Việt Nam, cải thiện hơn nữa tài chính công thông qua củng cố tài khóa bền vững, mở rộng cơ sở thu và ổn định nợ trong trung hạn, khắc phục những yếu kém trong lĩnh vực ngân hàng về vốn hóa, minh bạch về chất lượng tài sản và khuôn khổ pháp lý sẽ là những yếu tố tích cực giúp cải thiện hơn nữa xếp hạng tín nhiệm quốc gia trong thời gian tới. Việc tiếp tục duy trì xếp hạng tín nhiệm quốc gia ở mức BB, triển vọng “Tích cực” trong bối cảnh toàn cầu còn nhiều biến động và thách thức là kết quả của việc triển khai tích cực các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô, cải cách hệ thống tài chính - ngân hàng cũng như thành quả kiểm soát đại dịch để ổn định đời sống, phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của Đảng, Quốc hội và Chính phủ Việt Nam. Bộ Tài chính sẽ tiếp tục phối hợp với Fitch Ratings, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm cũng như tổ chức quốc tế khác để có thông tin đầy đủ và cơ sở xác thực nhằm đưa ra quan điểm sát thực, tích cực về hồ sơ tín dụng của Việt Nam. Hồng Thiết      

Thực hiện áp dụng mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn

TĐKT - Tổng cục Thuế ban hành Công điện số 04/CĐ-TCT về việc thực hiện áp dụng mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn theo quy định tại Nghị quyết số 18/2022/UBTVQH15 ngày 23/3/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Nội dung Công điện cho biết, ngày 23/03/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 18/2022/UBTVQH15 quy định về mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn. Theo đó, tại Điều 1 Nghị quyết số 18/2022/UBTVQH15 nêu trên quy định: từ ngày 01 tháng 04 năm 2022 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2022, giảm 50% mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng (trừ etanol), dầu diesel, dầu mazut, dầu nhờn, mỡ nhờn; giảm 70% mức thuế bảo vệ môi trường đối với dầu hỏa. Mức thuế cụ thể được quy định tại khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết này. Tổng cục Thuế yêu cầu các Cục Thuế chủ động tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn cho người nộp thuế trên địa bàn, đồng thời chỉ đạo các Chi cục Thuế trên địa bàn tỉnh, thành phố kịp thời triển khai thực hiện áp dụng mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn theo quy định tại Nghị quyết số 18/2022/UBTVQH15 nêu trên nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ phục hồi phát triển sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp trong bối cảnh giá dầu thô có xu hướng tăng cao, tình hình dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp. Hồng Thiết  

Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" góp phần giúp nền kinh tế tăng trưởng

TĐKT - Năm 2021, mặc dù phải đối mặt với tác động tiêu cực từ đại dịch Covid-19, nhưng dưới sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, tạo điều kiện của Nhà nước và sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, ngành và địa phương, sự đồng tình, ủng hộ nhân dân, năm 2021, Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” tiếp tục được triển khai rộng rãi từ trung ương đến địa phương, từ thành thị đến những vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Ban Chỉ đạo Cuộc vận động các cấp đã đề ra và chỉ đạo nhiều giải pháp, cách làm hay, sáng tạo để đưa hàng hóa tiếp cận gần hơn với người dân; thái độ, sự quan tâm của người tiêu dùng Việt đối với các sản phẩm nội địa cũng được nâng cao; các doanh nghiệp, nhà sản xuất cũng chủ động tận dụng thời điểm khó khăn của thị trường để chuyển đổi mô hình hoạt động, phương thức sản xuất để thích ứng với bối cảnh phòng, chống dịch và bắt kịp cuộc Cách mạng 4.0; nhiều sản phẩm mang thương hiệu Việt đã thể hiện được uy tín và chiếm lĩnh thị phần nội địa và xuất khẩu đi nước ngoài. Theo thống kê, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa năm 2021 đạt kỷ lục 668,5 tỷ USD. Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” năm 2021 và triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2022 Ban Chỉ đạo Cuộc vận động của 63 tỉnh, thành phố đã tổ chức được 92.984 cuộc tuyên truyền với 4.097.471 lượt người tham dự, tổ chức được 598 hội nghị, hội thảo xúc tiến đầu tư, kết nối cung cầu; phối hợp tổ chức 7.995 hội chợ, triển lãm, chuyến đưa hàng Việt về nông thôn, xây dựng được 812 mô hình “Tự hào hàng Việt”, “Câu lạc bộ hàng Việt”; “Điểm bán hàng Việt”; “Nhận diện hàng Việt”, “Gian hàng bình ổn giá”… Trước ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, các doanh nghiệp đã chủ động chuyển đổi linh hoạt phương thức sản xuất, kinh doanh, ứng dụng khoa học công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tạo sức cạnh tranh của doanh nghiệp…. Cùng với đó, các tỉnh, thành phố đã có nhiều hình thức, cách làm sáng tạo, chương trình tuyên truyền phong phú, nội dung đổi mới, chú trọng xây dựng và thực hiện nhiều mô hình hay như: “Câu lạc bộ hàng Việt”, “Tổ phụ nữ ưu tiên dùng hàng Việt Nam” (Bình Thuận); “Nông sản Hải Phòng hướng tới người tiêu dùng Việt”; tổ chức cuộc thi trắc nghiệm trực tuyến tìm hiểu về Cuộc vận động (Bình Dương); Ngày hội “Thanh niên đồng hành cùng hàng Việt”, mô hình “Tự hào hàng Việt, sử dụng hàng Việt” (Hậu Giang, Hòa Bình); mô hình “Doanh nhân đồng hành cùng hàng Việt”, “Người Thanh Hóa ưu tiên dùng hàng Thanh Hóa”; “Người Tuyên Quang ưu tiên dùng nông sản Tuyên Quang; mô hình “Mỗi tuần giới thiệu một sản phẩm Việt Nam chất lượng cao” (Bến Tre); mô hình “Nhận diện hàng giả, hàng thật” (Hà Nội). “Những kết quả, nỗ lực trong triển khai Cuộc vận động đã góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội; mặc dù dịch bệnh diễn biến phức tạp nhưng chỉ số tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ năm 2021 chỉ giảm nhẹ 4,6% so với năm 2020” - Ủy viên Trung ương Đảng Lê Tiến Châu, Phó Chủ tịch - Tổng Thư ký UBTƯ MTTQ Việt Nam, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương Cuộc vận động chỉ rõ. Điểm bán hàng Việt tại BK Mart, Bắc Kạn Tuy nhiên, theo ông Lê Tiến Châu, bên cạnh những kết quả đạt được, Cuộc vận động vẫn tồn tại nhiều hạn chế, cần khắc phục, như: Tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, nhiều hoạt động không thể triển khai theo Kế hoạch; tình hình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp cũng gặp khó khăn; năng lực, sức cạnh tranh của nhiều hàng hóa Việt Nam còn hạn chế; hoạt động quảng bá, kết nối cung cầu chưa được thực hiện thường xuyên, hiệu quả chưa cao; còn tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ… Trong năm 2022, Ban chỉ đạo Trung ương cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" sẽ triển khai một số nội dung trọng tâm: Tăng cường đổi mới công tác quản lý, chấn chỉnh các hoạt động quản lý thị trường, hải quan, thuế… công bố thường xuyên, kịp thời các tiêu chí, tiêu chuẩn về chất lượng, giá cả sản phẩm hàng hóa Việt Nam sản xuất trên các phương tiện thông tin đại chúng. Chú trọng các hoạt động phát triển thị trường; có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại; xây dựng điểm bán sản phẩm đặc thù, phối hợp tổ chức các hội chợ thương mại, đưa hàng Việt về nông thôn, hàng Việt về biên giới; giới thiệu các mặt hàng OCOP đáp ứng nhu cầu thị trường và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Ban Chỉ đạo cũng nhấn mạnh tới việc vận động các doanh nghiệp đẩy mạnh ứng dụng khoa học, đổi mới quy trình quản lý, nâng cao tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm, hàng hóa dịch vụ; triển khai các ứng dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc sản phẩm; xây dựng, bảo vệ thương hiệu doanh nghiệp, sản phẩm; nâng cao năng lực nội tại và sức cạnh tranh phát huy vai trò đầu tàu của các tập đoàn, doanh nghiệp lớn; mở rộng hệ thống phân phối, tiêu thụ sản phẩm. Theo đánh giá của Bí thư Trung ương Đảng Đỗ Văn Chiến, Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương Cuộc vận động: Trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" đã góp phần giúp nền kinh tế tăng trưởng 2,68%. Đặc biệt, trong bối cảnh cả nước đang hưởng ứng lời kêu gọi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chỉ đạo của Bộ Chính tri, Ban Bí thư, Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ và các Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh đều nhấn mạnh đến việc phát triển kinh tế - xã hội sau đại dịch Covid -19. Chính bởi vậy, việc triển khai hiệu quả cuộc vận động sẽ mang nhiều ý nghĩa thiết thực, góp phần phục hồi và phát triển kinh tế của đất nước. Cùng với việc rà soát các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp của bộ, ngành, địa phương, ông Đỗ Văn Chiến đề nghị Ban chỉ đạo cần quan tâm tới việc ứng dụng chuyển đổi số; đẩy mạnh xúc tiến thương mại và quảng bá sản phẩm hàng Việt. Đồng thời, tăng cường các đoàn kiểm tra, kiểm soát thị trường và nâng cao vai trò giám sát của Ban Chỉ đạo trong kiểm tra triển khai cuộc vận động của từng địa phương. Để tạo sức lan tỏa của cuộc vận động, ông cho rằng cần tổ chức nhiều hơn nữa các chương trình tuyên dương, biểu dương các doanh nghiệp tiêu biểu, bình chọn các sản phẩm chất lượng tại mỗi địa phương. Đây chính là động lực, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh để doanh nghiệp Việt nâng cao chất lượng hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của người dân. Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến cũng đề nghị Bộ Công Thương cần đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm và tham mưu hoạt động kết nối cung cầu để không còn hiện tượng nông sản Việt ùn tắc như hiện nay. Thục Anh  

Trang