Diễn đàn

Tọa đàm khoa học “Đồng chí Võ Nguyên Giáp – Người kiến tạo nền móng cho quá trình phát triển của ngành Tổ chức nhà nước (1945 - 1946)”

Sáng nay 16/8/2021, Học viện Hành chính Quốc gia, Bộ Nội vụ tổ chức trực tuyến Tọa đàm khoa học “Đồng chí Võ Nguyên Giáp – Người kiến tạo nền móng cho quá trình phát triển của ngành Tổ chức nhà nước (1945 – 1946)”. TS Đặng Xuân Hoan, Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia chủ trì buổi Tọa đàm. Tham dự Tọa đàm có các đồng chí: Vũ Đăng Minh, Chánh Văn phòng Bộ; Nguyễn Hữu Tuấn, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ; Trần Nghị, Tổng Biên tập Tạp chí Tổ chức nhà nước; Nguyễn Ngọc Vân, Viện trưởng Viện Khoa học tổ chức nhà nước; các đồng chí trong Ban Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia và đại diện lãnh đạo các đơn vị thuộc Học viện, cùng nhiều chuyên gia, nhà khoa học, quản lý trong nước. Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia Đặng Xuân Hoan phát biểu đề dẫn Tọa đàm. Phát biểu đề dẫn Tọa đàm, Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia Đặng Xuân Hoan nhấn mạnh, Tọa đàm khoa học nhằm làm rõ những công lao và cống hiến của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đối với Đảng, dân tộc và cách mạng Việt Nam. Đây là dịp để các nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn cùng nhau trao đổi về cuộc đời và sự nghiệp, tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng của một chiến sĩ cộng sản đã dâng hiến trọn đời mình cho Đảng, cho dân tộc. Thiết thực góp phần vào công tác giáo dục truyền thống cách mạng, bồi dưỡng lập trường tư tưởng, đạo đức cách mạng, lối sống cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Các đại biểu tham dự Tọa đàm tại các điểm cầu trực tuyến Với hơn 10 tham luận cùng nhiều ý kiến đóng góp của các đại biểu tham dự, Tọa đàm đã làm nổi bật nhiều nội dung trọng yếu, phác họa một cách đầy đủ nhất về con người, cuộc đời, sự nghiệp và những cống hiến của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bao gồm: các nhân tố khách quan và chủ quan hình thành nên Người cộng sản kiên cường Võ Nguyên Giáp; cuộc đời hoạt động và sự nghiệp lẫy lừng của Đại tướng, cùng những cống hiến xuất sắc đối với việc kiến tạo nền móng cho quá trình hình thành và phát triển của ngành Tổ chức nhà nước. TS Trần Thị Bích Lan, Ban Tổ chức cán bộ (Học viện Hành chính Quốc gia) trình bày tham luận tại Tọa đàm. Đại tướng Võ Nguyên Giáp với 103 năm tuổi đời, hơn 80 năm hoạt động cách mạng và hơn 70 năm tuổi Đảng “đã có nhiều công lao to lớn và cống hiến đặc biệt xuất sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta”. Đại tướng được biết đến là một thiên tài quân sự lỗi lạc của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, người “Anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam”, “vị tướng của nhân dân” và là một vị tướng huyền thoại, một thiên tài quân sự vĩ đại của thế kỷ XX , được nhiều chính khách, tướng lĩnh và nhà nghiên cứu, bạn bè quốc tế kính trọng, nể phục. Vì thế, nhắc tới Đại tướng Võ Nguyên Giáp, không chỉ người dân Việt Nam mà cả thế giới biết đến một vị tướng tài ba, lỗi lạc. Tuy nhiên, ít ai biết rằng Ông đã có những hoạt động và cống hiến to lớn trong việc khởi tạo nền móng cho quá trình phát triển ngành Tổ chức nhà nước khi đảm nhiệm cương vị là Bộ trưởng Bộ Nội vụ đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) giai đoạn 1945 - 1946. Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25/8/1911 trong một gia đình nhà nho đức độ tại xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, kỷ niệm 110 năm (25/8/1911-25/8/2021) Ngày sinh vị Tướng tài ba của dân tộc Việt Nam, thông qua những tài liệu lưu trữ lịch sử, chúng ta cùng nhau ôn lại một thời kỳ, một giai đoạn mà vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ đầu tiên của Việt Nam đã đóng góp cho dân tộc, cho đất nước, đặt nền móng cho ngành Nội vụ: Củng cố, xây dựng chính quyền, xây dựng đất nước; bảo vệ thành quả cách mạng, góp phần làm cho đất nước ta “Đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” và hôm nay đang vững bước trên con đường hội nhập và phát triển. TS Trần Nghị, Tổng Biên tập Tạp chí Tổ chức nhà nước phát biểu tại Tọa đàm. TS Nguyễn Quang Vinh, Tổng Biên tập Tạp chí Quản lý nhà nước phát biểu tại Tọa đàm. Cách mạng Tháng Tám thành công đã mở ra một thời kỳ mới cho dân tộc. Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Trong nội các của Chính phủ lâm thời có 13 bộ và Bộ Nội vụ là một trong số đó, người được giao trọng trách làm Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Nội vụ là đồng chí Võ Nguyên Giáp, đồng chí đã nhận trách nhiệm trước Chính phủ và Nhân dân, gánh trên vai trách nhiệm nặng nề là lo việc nội trị của đất nước khi mới 34 tuổi, cuộc đời và sự nghiệp của Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Nội vụ gắn liền với những dấu ấn lịch sử quan trọng của đất nước từ khi thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hình ảnh của Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp là tấm gương sáng, mẫu mực, đức độ, một nhân cách lớn, hết lòng vì nước, vì dân, những đóng góp, cống hiến của đồng chí là vô cùng quan trọng cho sự nghiệp cách mạng, đặt nền móng cho việc xây dựng ngành Tổ chức nhà nước, công tác chính quyền dân chủ nhân dân, đặc biệt là công tác cán bộ và tổ chức cán bộ trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam. Ngay sau khi đảm nhận trọng trách quan trọng nhất của Bộ Nội vụ, đáp lại sự tin tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp đã đem hết tài năng, trí tuệ và tâm huyết, tích cực tham mưu cho Chính phủ ban hành nhiều sắc lệnh có tính chất pháp quy ở nhiều lĩnh vực khác nhau để quản lý, điều hành đất nước, như xoá bỏ các chính sách của bộ máy chính quyền thực dân phong kiến, giải tán các tổ chức chính trị phản động; bỏ thuế thân; tổ chức hệ thống các cơ quan của chính quyền mới; đảm bảo an ninh chính trị, trật tự trị an, bảo vệ vững chắc chính quyền dân chủ nhân dân và thành quả cách mạng. Đặc biệt, được sự tin tưởng, tín nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Nguyên Giáp là người duy nhất trong Chính phủ lâm thời được phép thay mặt Chủ tịch Chính phủ lâm thời với danh nghĩa là Bộ trưởng Bộ Nội vụ trực tiếp ký nhiều sắc lệnh quan trọng để kịp thời hướng dẫn, quản lý, điều hành đất nước. PGS.TS Đỗ Xuân Tuất, Phó Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng trình bày tham luận tại Tọa đàm. PGS.TS Nguyễn Văn Hậu, Chánh Văn phòng Học viện Hành chính Quốc gia trình bày tham luận tại Tọa đàm. Theo thống kê, mặc dù trên cương vị người đứng đầu Bộ Nội vụ trong khoảng 06 tháng (từ ngày 28/8/1945 đến ngày 02/3/1946), song đồng chí Võ Nguyên Giáp đã tham mưu cho Chính phủ ban hành khoảng 100 sắc lệnh, trong đó đồng chí thay mặt cho Chủ tịch Chính phủ trực tiếp ký 30 sắc lệnh. Đây chính là minh chứng sinh động, cụ thể cho vai trò đặc biệt quan trọng của Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Các sắc lệnh của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã mang lại nhiều lợi ích cho một đất nước còn non trẻ. Thực tế đã cho thấy sự cần thiết và tính đúng đắn từ chủ trương đến hướng dẫn thực hiện, tổ chức, xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền các cấp, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự xã hội, vấn đề giáo dục, tôn giáo, xã hội mà các sắc lệnh đã ban hành. Những đóng góp to lớn ấy của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã đặt nền móng và để lại nhiều giá trị đến hôm nay cho nền công vụ, công chức phục vụ Nhân dân. Mặc dù giữ cương vị người đứng đầu Bộ Nội vụ trong thời gian không dài, song với tài năng, trí tuệ, tâm huyết và tầm nhìn chiến lược của nhà lãnh đạo tài ba, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã giải quyết một khối lượng công việc là rất đồ sộ, những vấn đề quan trọng có ý nghĩa nền tảng, then chốt về bộ máy hành chính và tổ chức nhân sự, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của một nhà nước non trẻ lúc bấy giờ. Đặc biệt, đồng chí đã tham mưu, chỉ đạo xây dựng trình Chính phủ ban hành một loạt các sắc lệnh quan trọng, tạo cơ sở pháp lý để tổ chức bộ máy nhà nước, tổ chức chính quyền từ Trung ương đến địa phương, xây dựng đội ngũ công chức, chế độ công vụ và quản lý điều hành đất nước theo chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Những hoạt động và cống hiến to lớn của đồng chí Võ Nguyên Giáp trên cương vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ thời kỳ 1945 - 1946 đã được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, tôn vinh. Tấm gương tận tụy, cống hiến hết mình vì Tổ quốc, vì Nhân dân của đồng chí sẽ mãi là tấm gương để cán bộ, công chức, viên chức, Nhân dân và các thế hệ trẻ Việt Nam học tập, phấn đấu noi theo./. Theo tcnn.vn

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ làm việc với các Ủy ban của Quốc hội về tiến độ các dự án luật: Thay đổi tư duy, chuẩn bị từ sớm

Ngày 13/8, tại Nhà Quốc hội, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ chủ trì buổi làm việc với Thường trực Ủy ban Xã hội, Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh và Thường trực Ủy ban Tư pháp về tiến độ, chất lượng các dự án Luật sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ Hai, Quốc hội Khóa XV. Tham dự buổi làm việc còn có Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương cùng Chủ nhiệm các Ủy ban của Quốc hội, đại diện thường trực các Ủy ban của Quốc hội chủ trì thẩm tra các dự án luật. Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ chủ trì buổi làm việc với Thường trực các Ủy ban của Quốc hội  Đây là cuộc làm việc đầu tiên của Lãnh đạo Quốc hội với Thường trực các Ủy ban của Quốc hội Khóa XV nhằm xem xét cụ thể các vấn đề liên quan đến từng dự án Luật sẽ được trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ Hai tới. Cụ thể, tại Kỳ họp tới, Quốc hội sẽ cho ý kiến đối với 7 dự án Luật gồm: dự án Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi); dự án Luật Điện ảnh (sửa đổi); dự án Luật Cảnh sát cơ động; dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự; dự án Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi); dự án Luật sửa đổi, bổ sung Phụ lục – danh mục chỉ tiêu thống kê quốc gia của Luật Thống kê; dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ.  Phát biểu tại cuộc làm việc, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh, đây là những dự án luật đầu tiên trong chương trình lập pháp của Quốc hội Khóa XV, do đó, việc rà soát, bảo đảm chất lượng chuẩn bị các dự luật này chính là thực hiện lời hứa của Quốc hội về siết chặt kỷ luật, kỷ cương lập pháp, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, bảo đảm tính công khai, minh bạch và tính thống nhất của hệ thống pháp luật.  Với 6/7 dự án Luật là sửa đổi, bổ sung một số điều hoặc sửa đổi toàn diện, chỉ có 1 dự án Luật được xây dựng mới hoàn toàn, Chủ tịch Quốc hội lưu ý, mỗi lần sửa đổi, bổ sung luật là cơ hội để khắc phục những vướng mắc, bất cập, hạn chế như tình trạng "luật vừa sửa xong đã không đáp ứng được yêu cầu, luật chồng chéo, thiếu khả thi, đời sống pháp luật thì ngắn". Vì vậy, cần phải tập trung đánh giá, sửa đổi thật căn cơ, bảo đảm cao nhất chất lượng dự án luật. Theo Chủ tịch Quốc hội, kinh nghiệm các kỳ họp vừa qua cho thấy: muốn rút ngắn thời gian nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội thì không có cách gì tốt hơn là phải chuẩn bị từ sớm, kỹ lưỡng các nội dung trình. Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, phải có cách làm khác đi, phù hợp hơn nữa với thực tiễn thì mới đáp ứng được yêu cầu cuộc sống. Do đó, lãnh đạo Quốc hội chủ trương làm việc với các Ủy ban của Quốc hội để rà soát quá trình chuẩn bị, kiểm tra tiến độ, chất lượng các dự án Luật, lưu ý một số vấn đề và định hướng các nội dung để bảo đảm dự án luật trình ra Quốc hội là Dự thảo tốt nhất. Trên cơ sở chuẩn bị của các cơ quan trình và báo cáo thẩm tra của các Ủy ban của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xem xét, quyết định việc có triệu tập Hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách để thảo luận về các dự án luật này hay không, Chủ tịch Quốc hội cũng lưu ý Tổng Thư ký Quốc hội và các Ủy ban của Quốc hội phải xác định rõ các nội dung báo cáo Quốc hội thảo luận tại phiên họp tổ, phiên họp toàn thể để tập trung vào các vấn đề lớn, căn cơ về chính sách, về tính công khai, minh bạch, tính khả thi, thống nhất của dự luật với hệ thống pháp luật, còn những vấn đề thuộc về kỹ thuật lập pháp có thể xử lý bằng việc đóng góp ý kiến bằng văn bản để hoàn thiện. Với cách làm như vậy, Chủ tịch Quốc hội cho rằng, sẽ đáp ứng được yêu cầu vừa bảo đảm chất lượng công tác xây dựng luật vừa rút ngắn được thời gian làm việc của Quốc hội.  Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu chỉ đạo tại buổi làm việc Trong phiên họp buổi sáng Thường trực Ủy ban Xã hội báo cáo về tiến độ, chất lượng chuẩn bị dự án Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi); Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục báo cáo về tiến độ, chất lượng chuẩn bị dự án Luật Điện ảnh (sửa đổi); Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh báo cáo về tiến độ, chất lượng chuẩn bị dự án Luật Cảnh sát cơ động; Thường trực Ủy ban Tư pháp báo cáo về tiến độ, chất lượng chuẩn bị dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự.  Qua nghe báo cáo tiến độ, một số vấn đề lớn của các dự án luật và thảo luận tại buổi làm việc, Chủ tịch Quốc hội đánh giá cao sự chuẩn bị của các Ủy ban trong việc chủ động theo dõi nắm tình hình soạn thảo và cho ý kiến về các nội dung của dự thảo luật. Chủ tịch Quốc hội đề nghị các Ủy ban tiếp tục phối hợp với Viện Nghiên cứu Lập pháp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Pháp luật, cơ quan chủ trì soạn thảo và các cơ quan, tổ chức hữu quan để rà soát, lấy ý kiến rộng rãi của các đối tượng chịu sự tác động, chuyên gia, nhà khoa học, tổng kết thực tiễn thi hành, đánh giá tác động …trên cơ sở đó hoàn thiện các báo cáo thẩm tra. Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, nhân cơ hội sửa luật thì phải đặt ra vấn đề hết sức thấu đáo nhằm giải quyết những vấn đề phát sinh, tạo sự chuyển biến tích cực trên thực tế, đáp ứng mục tiêu yêu cầu của phát triển. Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh báo cáo tiến độ chuẩn bị và một số vấn đề lớn của dự án Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi) Đối với dự án Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi), Chủ tịch Quốc hội đề nghị bên cạnh các nội dung Chính phủ trình, Ủy ban Xã hội cần rà soát, đánh giá thực tiễn triển khai thi hành Luật hiện hành, đối chiếu với tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này, chủ trương của Đảng về công tác thi đua khen thưởng…thấy được những gì chưa làm được, những gì còn bất cập, hạn chế để xác định phạm vi điều chỉnh và nội dung sửa đổi, bổ sung. Chủ tịch Quốc hội đề nghị trong quá trình sửa đổi luật này cần làm rõ mục tiêu của thi đua, khen thưởng, mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng, nguyên tắc, tiêu chuẩn danh hiệu thi đua; rà soát các quy định về thẩm quyền trao thưởng, phát động thi đua, hồ sơ, trình tự…để sửa đổi theo hướng khắc phục bệnh thành tích, nặng về tính tích lũy gối đầu, chưa quan tâm kịp thời đến khen thưởng đúng người đúng thời điểm, bảo đảm công bằng, công khai, minh bạch; đồng thời quan tâm đến các giải thưởng trong khu vực tư. Chủ tịch Quốc hội kỳ vọng, thông qua lần sửa đổi luật lần này các vấn đề được xem xét thấu đáo, thi đua khen thưởng được thực hiện thực chất, đúng, trúng sẽ tạo động lực, chuyển biến lớn trong toàn xã hội, nếu làm không đến nơi thì luật sẽ không đi vào cuộc sống. Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Nguyễn Đắc Vinh báo cáo về một số vấn đề của dự án Luật Điện ảnh (sửa đổi) Đối với dự án Luật Điện ảnh (sửa đổi), Chủ tịch Quốc hội đánh giá cao sự chuẩn bị của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục mặc dù chưa có hồ sơ chính thức từ Chính phủ nhưng Ủy ban đã chủ động, sớm có ý kiến nghiên cứu phục vụ công tác thẩm tra một cách chi tiết, kỹ lưỡng. Chủ tịch Quốc hội bày tỏ tin tưởng với cách làm như hiện nay sẽ bảo đảm được chất lượng trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến và trình Quốc hội xem xét, thảo luận. Ghi nhận dự thảo luật lần này có nhiều nội dung tiến bộ phù hợp với tình hình mới khi công nghệ phát triển và hội nhập quốc tế, song Chủ tịch Quốc hội đề nghị làm rõ nội hàm các chính sách. Chủ tịch Quốc hội lưu ý, điện ảnh trước hết là một loại hình văn hóa nghệ thuật, do đó, điện ảnh muốn phát triển theo hướng nào thì đều phải bảo đảm  xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà Nghị quyết Đại hội Đảng đã đề ra. Mặt khác, điện ảnh còn là một loại hình công nghiệp văn hóa, khi đó phải ứng xử, thúc đẩy sự phát triển của điện ảnh với tư cách là một ngành kinh tế, tuân theo các quy luật thị trường. Dự án Luật Điện ảnh (sửa đổi) phải bám sát, cụ thể hóa các yêu cầu này.  Chủ tịch Quốc hội cũng nhấn mạnh yêu cầu về thúc đẩy nền điện ảnh hội nhập quốc tế và phát triển thị trường điện ảnh trong nước; đồng thời rà soát các quy định dễ gây xung đột giữa quản lý nhà nước với hoạt động doanh nghiệp như cấp phép, kiểm định, tiền kiểm, hậu kiểm, cho xuất khẩu/nhập khẩu, phát hành phim… Cần hết sức nghiên cứu ý kiến đóng góp của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, tham vấn ý kiến của Hiệp hội có liên quan về dự án Luật. Kiến nghị nào hợp lý, thỏa đáng thì cần yêu cầu cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp thu tối đa, không để vấn đề lợi ích chi phối.  Đối với dự án Luật Cảnh sát cơ động, Chủ tịch Quốc hội đánh giá cao quá trình chuẩn bị của Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh; đồng thời, đề nghị cơ quan chủ trì thẩm tra yêu cầu cơ quan soạn thảo tiếp tục hoàn thiện hồ sơ dự án Luật, bổ sung đầy đủ các văn bản còn thiếu như dự thảo quy định chi tiết hướng dẫn thi hành, báo cáo đánh giá kinh nghiệm quốc tế, báo cáo đánh giá tác động... để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp tháng 9/2021.  Trong quá trình thẩm tra, Chủ tịch Quốc hội đề nghị Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh tập trung làm rõ sự cần thiết nâng Pháp lệnh Cảnh sát cơ động thành Luật Cảnh sát cơ động; làm rõ cơ sở pháp lý, chính trị, thực tiễn, sự phù hợp, thống nhất, đồng bộ của dự luật trong hệ thống pháp luật; chỉ rõ những vấn đề đặc thù cần quy định ngay trong luật này và những vấn đề chung về lực lượng cảnh sát, công an được quy định trong Luật Công an nhân dân, mối quan hệ giữa lực lượng cảnh sát cơ động với các lực lượng khác của công an nhân dân. Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương cho ý kiến về dự án Luật Cảnh sát cơ động Đối với dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự, Chủ tịch Quốc hội thống nhất với quan điểm của Thường trực Ủy ban Tư pháp về phạm vi sửa đổi, bổ sung nhằm thực hiện cam kết trong Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), không nên mở rộng sửa đổi các nội dung ngoài cam kết khi chưa đánh giá được tác động. Ngoài ra, để thực hiện cam kết với CPTPP thì cùng với sửa đổi Luật, còn phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ điều tra, kiểm sát, tòa án… chuyên sâu về lĩnh vực này.  Theo chương trình làm việc, chiều cùng ngày, Chủ tịch Quốc hội sẽ nghe Thường trực Ủy ban Kinh tế báo cáo về tiến độ, chất lượng chuẩn bị dự án Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) và dự án Luật sửa đổi, bổ sung Phụ lục – danh mục chỉ tiêu thống kê quốc gia của Luật Thống kê; Thường trực Ủy ban Pháp luật báo cáo về tiến độ, chất lượng chuẩn bị chuẩn bị dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ./. Theo quochoi.vn

Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp - người tham gia xây dựng nền hành chính vì hạnh phúc của người dân Việt Nam

Cách đây 110 năm, quê hương Quảng Bình với vị mặn mòi của biển cả, cái nắng chói chang của những cồn cát và truyền thống trung dũng, kiên cường của nhân dân nơi đây đã hun đúc, sinh ra Võ Nguyên Giáp - Anh Văn - Đại tướng Võ Nguyên Giáp kính mến của chúng ta - người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị Đại tướng tài ba của Quân đội nhân dân Việt Nam và Nhân dân Việt Nam anh hùng - vị Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Nội vụ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhân dịp kỷ niệm 76 năm Ngày thành lập Bộ Nội vụ (28/8/1945 - 28/8/2021) và 110 năm Ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp (25/8/1911 - 25/8/2021) - vị Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Nội vụ, đồng chí Phạm Thị Thanh Trà - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Ban Tổ chức Trung ương, Bộ trưởng Bộ Nội vụ có bài viết quan trọng về những cống hiến của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp - người tham gia đặt nền móng xây dựng nền hành chính vì hạnh phúc của người dân Việt Nam. Xin trân trọng giới thiệu bài viết của Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà. Biên niên sử cuộc đời và sự nghiệp, tấm gương mẫu mực, đức độ và nhân cách lớn, sáng ngời, cả một đời vì nước, vì dân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được giới sử gia, các học giả, nhà nghiên cứu trong nước và ngoài nước đề cập, phân tích, đánh giá rất nhiều; mà tựu trung, như bài xã luận đăng trên Báo EL Moudjahd của Algerie (số ra ngày 04/01/1976) đã nhấn mạnh: “Tướng Giáp còn hơn một anh hùng. Ông thuộc dòng các chiến sĩ mà người ta sẽ kể chiến công từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có lẽ ngay cả các nhà sử học cũng cần rất nhiều luận chứng để tránh miêu tả ông như một nhân vật truyền thuyết để kể lại đầy đủ những giá trị của ông”(1). Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp (đứng hàng đầu, ngoài cùng bên trái) và Chủ tịch Hồ Chí Minh (hàng đầu, đứng giữa) trong lần ra mắt Chính phủ Cách mạng lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 9/1945. Ảnh: Tư liệu Ngược dòng lịch sử cách đây 76 năm, cuộc Tổng khởi nghĩa của Mặt trận Việt Minh trên khắp cả nước đã thu được thắng lợi hoàn toàn, giành chính quyền về tay nhân dân. Ngày 28/8/1945, theo đề nghị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh, Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam đã tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với cơ cấu gồm 13 Bộ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin cậy giao giữ trọng trách Bộ trưởng Bộ Nội vụ kiêm Bí thư Đảng đoàn Chính phủ, đặc trách quân sự, trực tiếp lãnh đạo Bộ Nội vụ và công việc tổ chức chính quyền, an ninh, nội trị trong những ngày tháng đầu khi nước ta mới giành được độc lập. Ngay khi nhận trọng trách, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã bắt tay ngay vào những nhiệm vụ trọng yếu của quốc gia - tham gia xây dựng các thể chế cho nền hành chính dân chủ và pháp quyền, xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương với mục tiêu cao cả là vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của người dân. Không phụ sự ủy thác, tin cậy và giao phó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ tưởng chừng “bất khả thi” trong những ngày đầu tiên của chính quyền dân chủ nhân dân non trẻ, lại ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. NHỮNG VIÊN GẠCH ĐẦU TIÊN XÂY DỰNG NỀN MÓNG CHO NỀN HÀNH CHÍNH VÌ HẠNH PHÚC CỦA NGƯỜI DÂN VIỆT NAM Dù chỉ giữ trọng trách Bộ trưởng Bộ Nội vụ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong khoảng thời gian hơn 6 tháng (từ ngày 28/8/1945 đến ngày 02/3/1946) nhưng Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp đã có công lao to lớn trong việc tham gia xây dựng thể chế hành chính, tổ chức bộ máy nhà nước dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong khoảng thời gian ngắn này, Ông đã kịp tham mưu cho Chính phủ ban hành trên 100 sắc lệnh, trong đó có khoảng 30 sắc lệnh do chính Ông ký, có tính chất pháp quy hành chính trên nhiều ngành/lĩnh vực. Với khối lượng công việc đồ sộ trong khoảng thời gian ngắn mà đồng chí Võ Nguyên Giáp đã làm khi đó, chúng ta có thể tự hào khẳng định rằng, dưới sự chỉ đạo, dẫn dắt, tín nhiệm và giao phó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp chính là người đã tham gia đặt những viên gạch đầu tiên cho việc xây dựng nền hành chính vì hạnh phúc của người dân Việt Nam! Tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội khóa I  Đối với chính thể dân chủ cộng hòa, sau khi ra đời, một trong những công việc trọng đại đầu tiên nhất thiết phải làm là tổ chức Tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thay mặt cử tri cả nước thực hiện chức năng lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước. Ngày 02/9/1945, ngay sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã có bài diễn văn quan trọng nêu rõ tầm vóc lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám; đồng thời, nêu lên 08 vấn đề cấp bách của Chính phủ cách mạng lâm thời. Đặc biệt, trong Diễn văn nhấn mạnh: “... chỉ nay mai Chính phủ lâm thời sẽ ra sắc lệnh triệu tập Quốc hội theo nguyên tắc dân chủ. Các đại biểu của Quốc hội đều do dân bầu theo lối phổ thông đầu phiếu. Quốc hội sẽ đem lại cho chúng ta một Hiến pháp và một Chính phủ chính thức”(2). Ngoài ra, Bộ Nội vụ có trách nhiệm nghiên cứu xây dựng, kiện toàn hệ thống chính quyền nhà nước các cấp từ Trung ương đến địa phương. Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của Tổng tuyển cử, được sự tin cậy, giao phó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký ban hành Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời số 14 ngày 08/9/1945. Nội dung Sắc lệnh chỉ rõ: “1- Trong một thời hạn hai tháng kể từ ngày ký sắc lệnh này sẽ mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc dân đại hội; 2- Tất cả công dân Việt Nam, cả trai và gái, từ 18 tuổi trở lên, đều có quyền tuyển cử và ứng cử, trừ những người đã bị tước mất công quyền và những người trí óc không bình thường; 3- Số đại biểu của Quốc dân đại hội ấn định là 300 người; 4- Quốc dân đại hội sẽ có toàn quyền ấn định Hiến pháp cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; 5- Một Ủy ban để dự thảo thể lệ cuộc tổng tuyển cử sẽ thành lập; 6- Để dự thảo một bản hiến pháp đệ trình Quốc hội, một Ủy ban khởi thảo hiến pháp 7 người sẽ thành lập; 7- Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền phụ trách thi hành sắc lệnh này”. Với lối diễn đạt ngắn gọn, cô đọng, súc tích, Sắc lệnh số 14 ngày 08/9/1945 đặt nền móng cho việc tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên vào ngày 06/01/1946, bầu ra Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Kết quả của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên này là minh chứng sinh động, hùng hồn cho niềm hạnh phúc lớn lao, vô bờ bến của nhân dân Việt Nam - những người từ thân phận lầm than, mất nước - nay đã “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Bài thơ “Đất nước”của Nguyễn Đình Thi), thực sự trở thành chủ nhân của đất nước, không phân biệt là trai hay gái, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền tuyển cử và ứng cử vào Quốc dân đại hội.  Tại Kỳ họp thứ nhất (ngày 02/6/1946) Quốc hội khóa I đã công nhận Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, công nhận Kháng chiến ủy viên hội do đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch, công nhận Ban Dự thảo Hiến pháp gồm 11 thành viên. Với việc công nhận Chính phủ chính thức và các thành viên của Chính phủ, Quốc hội khóa I đã mở đường cho việc xây dựng một nền hành chính dân chủ, vì dân - nền tảng để chăm lo cho cuộc sống ấm no về vật chất, đầy đủ về tinh thần, vì hạnh phúc của người dân Việt Nam. Trong tiến trình đó có một phần công lao đóng góp to lớn của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp.  Cùng với tổ chức Tổng tuyển cử, một trong những khó khăn lớn nhất lúc bấy giờ mà Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp phải làm bằng được là kêu gọi những người hiền tài ra giúp nước theo chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vốn là thầy giáo dạy Lịch sử, Ông thấm nhuần lời dạy của người xưa: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng lớn mạnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy, các bậc vua tài giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo nhân tài, bồi đắp thêm nguyên khí” (Thân Nhân Trung, bài văn bia đầu tiên ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám). Với sự nỗ lực của Ông, sau cuộc Tổng tuyển cử, Quốc hội đã bầu ra Chính phủ chính thức với đội ngũ cán bộ vừa có đức, vừa có tài, trong đó có nhiều nhân sĩ, trí thức tiêu biểu đã tham gia. Việc tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội khóa I là thắng lợi của Đảng, Nhà nước, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, của toàn thể nhân dân Việt Nam, trong đó có công của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp. Nhìn trên phương diện này, Ông là người có công lớn trong việc tham gia xây dựng nền hành chính vì hạnh phúc của nhân dân Việt Nam. Phụ trách việc thành lập Ban dự thảo Hiến pháp, đưa tới sự ra đời của bản Hiến pháp năm 1946 Còn nhớ, năm 1919, khi gửi bản yêu sách tám điểm tới Hội nghị Versailles đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nêu những điều liên quan đến hiến pháp, pháp quyền. Sau đó, năm 1922, trong “Việt Nam yêu cầu ca”, Người khẳng định vai trò của Hiến pháp, pháp luật bằng hai câu thơ: “Bảy xin hiến pháp ban hành/ Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”(3). Ngày 02/9/1945, mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh trân trọng trích Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”(4). Tiếp tục tinh thần thượng tôn “thần linh pháp quyền” cũng như thực hiện Sắc lệnh số 14 ngày 08/9/1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao phụ trách việc thành lập Ban dự thảo Hiến pháp. Chỉ trong một thời gian ngắn, với sự giúp đỡ của các chuyên gia giàu kinh nghiệm, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp và Ban Soạn thảo đã hoàn thành Dự thảo và trình Quốc hội khóa I thông qua Hiến pháp năm 1946 - đạo luật cơ bản đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Điều thứ 1 của Hiến pháp năm 1946 xác định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.  Hiến pháp là một thực thể gắn kết chặt chẽ với chế định dân chủ, bởi vì một xã hội không có Hiến pháp thì người dân không thể được hưởng quyền tự do, dân chủ hay mưu cầu hạnh phúc. Hiến pháp năm 1946 là văn bản pháp luật đầu tiên góp phần quan trọng trong việc đấu tranh giành, giữ và xây dựng chính quyền còn non trẻ, là cơ sở để xây dựng nhà nước dân chủ pháp quyền với nền hành chính vận hành thông suốt từ Trung ương đến địa phương. Nền hành chính dựa trên nền tảng dân chủ đó là nền hành chính vì hạnh phúc của người dân. Với công lao to lớn trong việc ra đời bản Hiến pháp năm 1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp góp phần đặt những viên gạch đầu tiên cho nền hành chính vì hạnh phúc của người dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp (thứ hai bên phải) gặp mặt Đoàn đại biểu Anh hùng Chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang quân Giải phóng miền Nam ra thăm miền Bắc, ngày 11/01/1965. Ảnh: Tư liệu Ký ban hành Sắc lệnh số 07 ngày 05/9/1945 Thấu hiểu nỗi cơ cực, lầm than của nhân dân dưới thời thực dân, phong kiến, và rằng người dân chỉ biết đến tự do, hạnh phúc khi họ được cơm no, áo ấm, nên ngay từ những ngày đầu cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề xuất những công việc mà Chính phủ phải thực hiện ngay: “1. Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở...”(5); bởi lẽ, “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(6). Một Chính phủ vì dân là một Chính phủ mà từ hoạch định, xây dựng chính sách cho đến thi hành chính sách đều phải xuất phát từ chăm lo cho dân. Người nhấn mạnh:“Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sông của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”(7).  Hành động của nền hành chính vì dân đòi hỏi: “Việc gì có lợi cho dân, chúng ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân chúng ta phải hết sức tránh”(8). Là người luôn thấu hiểu và rất linh hoạt trong việc hiện thực hóa quan điểm chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã tập trung vào vấn đề cấp bách lúc bấy giờ là chống “giặc đói”, cũng có nghĩa là chăm lo cho đời sống vật chất của người dân - một khía cạnh phản ánh cuộc sống hạnh phúc của nhân dân. Thay mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ông đã ký ban hành Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời số 07 ngày 05/9/1945.  Sắc lệnh số 07 ngày 05/9/1945 đã góp phần tháo gỡ kịp thời những khó khăn trong việc vận chuyển, buôn bán thóc gạo, chống lại nạn đầu cơ, tích trữ lương thực trong bối cảnh nạn đói đang hoành hành dữ dội khi đó. Nhờ sắc lệnh số 07 mà việc buôn bán, chuyên chở thóc gạo ở Bắc Bộ hoàn toàn được tự do, Chính phủ cần thóc gạo sẽ mua thẳng của tư gia. Còn đối với những người có hành vi đầu cơ, tích trữ gạo mà làm ảnh hưởng đến nền kinh tế thì sẽ bị nghiêm phạt theo luật và bị tịch thu gia sản. Việc Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp kịp thời ký ban hành Sắc lệnh số 07 ngày 05/9/1945 cũng chính là việc làm thiết thực, kịp thời của Chính phủ, phản ánh sinh động một thực tế rằng, nền hành chính dân chủ non trẻ buổi đầu ấy đã luôn biết đặt lợi ích, nhu cầu của người dân Việt Nam lên trên hết, biết vì hạnh phúc của người dân bắt đầu từ những điều dung dị nhất là cơm ăn, áo mặc. Ký ban hành Sắc lệnh số 17, số 19 và số 20 ngày 08/9/1945 Bên cạnh việc đối phó với “giặc đói”, Chính phủ còn phải quyết liệt đấu tranh với “giặc dốt”. Người dân “no cái bụng” rồi mà vẫn còn “đói cái chữ”, nghĩa là vẫn còn nghèo nàn về đời sống tinh thần thì chưa thể có được niềm hạnh phúc thực sự. Ngay trong buổi họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ vào ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra sáu việc cấp bách, trong đó, việc chống nạn mù chữ xếp thứ hai, chỉ sau nạn đói. Người nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ”. Để chăm lo cho hạnh phúc lâu dài của nhân dân thì nhất thiết phải lo xóa nạn mù chữ. Thay mặt Chủ tịch Chính phủ lâm thời, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký ban hành Sắc lệnh số 17 ngày 08/9/1945. Sắc lệnh số 17 thực sự là “cú hích” mạnh mẽ làm bùng lên phong trào “Bình dân học vụ” diễn ra rộng khắp từ thành thị đến nông thôn; những lớp học chữ I, T mọc lên khắp mọi nơi, người biết chữ làm giáo viên không lương, người dân đi học để thoát cảnh không thể viết tên mình. Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp cũng đã ký ban hành Sắc lệnh số 19 ngày 08/9/1945 với nội dung gồm 03 khoản, trong đó, Khoản II quy định: “Trong hạn sáu tháng, làng nào và đô thị nào cũng đã phải là một lớp học dạy được ít nhất là ba mươi người”. Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp còn ký ban hành Sắc lệnh số 20 về việc thiết lập những lớp học bình dân buổi tối cho nông dân và thợ thuyền; trong đó quy định “bắt buộc học chữ quốc ngữ và không phải mất tiền cho tất cả mọi người”.  Kết quả của phong trào Bình dân học vụ vượt trên cả sự mong đợi. Theo sách Việt Nam chống nạn thất học của Nhà xuất bản Giáo dục năm 1980, chỉ trong một năm (từ tháng 8/1945 đến tháng 8/1946), phong trào Bình dân học vụ đã xóa mù chữ cho hơn 2,5 triệu người, phát triển được gần 96.000 giáo viên, mở được gần 75.000 lớp học. Sau 5 năm (đến ngày 30/6/1950), gần 12,2 triệu người biết chữ. 10 tỉnh với 80 huyện, hơn 1.400 xã và 7.200 thôn được công nhận thanh toán nạn mù chữ. Có thể khẳng định rằng, Sắc lệnh số 17, Sắc lệnh số 19 và Sắc lệnh số 20 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời ngày 08/9/1945 là những văn bản pháp chế hành chính rất quan trọng, góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy cuộc chiến chống “giặc dốt” thời bấy giờ, đồng thời, đặt nền móng cho việc cải thiện, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của các tầng lớp nhân dân. Đây cũng là một trong những tiêu chí rất quan trọng của nền hành chính hiệu lực, hiệu quả, vì hạnh phúc của người dân. Bằng tài năng xuất chúng, bằng mưu lược tinh thông và trên hết là cái tâm sáng vì nước, vì dân, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã làm rất tốt công tác xây dựng nền pháp chế hành chính vì dân, chủ động tham mưu cho Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành nhiều sắc lệnh, văn bản hành chính..., góp phần từng bước đưa công tác tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính đi vào ổn định, nền nếp, có căn cứ pháp lý và dựa trên quy trình hành chính chặt chẽ; dần khẳng định được hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nền hành chính vì hạnh phúc của người dân. Chúng ta có quyền tự hào khẳng định rằng, những cống hiến to lớn của Bộ Nội vụ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong những ngày tháng đầu, không thể nào quên dưới sự lãnh đạo của Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp đã đặt nền móng vững chắc cho quá trình xây dựng nền hành chính dân chủ, pháp quyền vì hạnh phúc của người dân Việt Nam. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, lịch sử dân tộc và đất nước Việt Nam anh hùng của chúng ta sẽ mãi mãi ghi nhận, tiếp tục kế thừa, phát huy những giá trị của nền hành chính vì hạnh phúc của người dân trên những chặng đường cách mạng tiếp theo. Đồng chí Phạm Thị Thanh Trà - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Ban Tổ chức Trung ương, Bộ trưởng Bộ Nội vụ. TỰ HÀO VÀ BIẾT ƠN VỊ BỘ TRƯỞNG ĐẦU TIÊN VÕ NGUYÊN GIÁP, BỘ NỘI VỤ KHÔNG NGỪNG PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG VẺ VANG CỦA NGÀNH, GÓP PHẦN XÂY DỰNG NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÌ HẠNH PHÚC CỦA NGƯỜI DÂN VIỆT NAM Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng đã xác định: “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch... Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước”(9).  Một trong những điểm mới lần đầu tiên được nêu trong Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng là vấn đề “quản trị quốc gia”. Trong Báo cáo chính trị, phần “Những nhiệm vụ trọng tâm và đột phá chiến lược của nhiệm kỳ Đại hội XIII”, Đảng ta chủ trương: “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả”(10). Bên cạnh đó, cùng với quan điểm “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Đảng ta chủ trương: “Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân”(11). Từ vai trò của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp với tư cách là người tham gia đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng nền hành chính dân chủ, pháp quyền, vì hạnh phúc của nhân dân, kết hợp với chủ trương, đường lối của Đảng ta về xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả; từng bước hướng tới nền quản trị quốc gia vì hạnh phúc của nhân dân Việt Nam, có thể khẳng định rằng, Đảng, Nhà nước đang rất tin tưởng, giao phó cho ngành Nội vụ nói chung, Bộ Nội vụ nói riêng trọng trách nặng nề - song cũng là sứ mạng thiêng liêng, cao cả: xây dựng, vận hành nhịp nhàng, thông suốt nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, hướng đến mục tiêu tối thượng vì hạnh phúc của nhân dân.  Trên hành trình đó, việc tiếp thu, kế thừa, tiếp tục phát huy những di sản về một nền hành chính dân chủ, pháp quyền, vì hạnh phúc của nhân dân Việt Nam mà Cố Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã có công xây dựng, bồi đắp chắc chắn sẽ mang lại những giá trị cao đẹp và nhân văn sâu sắc, những bài học hữu ích cho toàn thể cán bộ, công chức, viên chức toàn ngành Nội vụ hiện nay. Kỷ niệm 110 năm ngày sinh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là dịp để chúng ta cùng nhau ôn lại cuộc đời, sự nghiệp và những cống hiến to lớn của Đại tướng với Đất nước, với Dân tộc, với Quân đội nhân dân Việt Nam và với vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ đầu tiên - người tham gia đặt nền móng cho việc xây dựng một nền hành chính vì hạnh phúc của nhân dân Việt Nam; chúng ta càng thêm tự hào về người cộng sản kiên trung, Anh hùng dân tộc, một vị tướng kiệt xuất của nhân loại, người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam, vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ đầu tiên đã góp phần làm rạng danh cho dân tộc Việt Nam anh hùng. Với tâm nguyện “ôn cố tri tân”, học hỏi các bậc tiền nhân ý chí, nghị lực, những bài học quý, kinh nghiệm hay để vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào thực tiễn sự nghiệp cách mạng của dân tộc, đất nước trong hiện tại, chúng ta tin tưởng sâu sắc rằng, những di sản tinh thần vô giá mà Cố Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp để lại cho các thế hệ cán bộ, công chức chúng ta hôm nay và muôn đời sau sẽ luôn lan tỏa mạnh mẽ, trở thành động lực thôi thúc mỗi chúng ta nỗ lực vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó./. -------------------------------- Ghi chú: (1) Xem: 101 khoảnh khắc về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Nxb Hà Nội, 2011, tr.95. (2) Diễn văn của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp tại Lễ Độc lập 02/9/1945; văn bản có tại: http://hovuvovietnam.com/Dien-van-cua-Bo-truong-Bo-Noi-vu-Vo-Nguyen-Giap-tai-Le-doc-lap-2-9-1945_tc_ 304 _332_1133.html, truy cập ngày 05/7/2021. (3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.473. (4),(5),(6),(8) Sđd, tập 4, tr.1, tr.175, tr.64, tr.47. (7) Sđd, tập 7, tr.572. (9),(10),(11) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.176-178, tr.203, tr.216. PHẠM THỊ THANH TRÀ ỦY VIÊN BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG, PHÓ TRƯỞNG BAN BAN TỔ CHỨC TRUNG ƯƠNG, BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ Theo tcnn.vn    

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Chính phủ mới: Khí thế mới, nỗ lực mới, quyết tâm phấn đấu lập nhiều thành tích mới”

TĐKT - Sáng 11/8, tại Phiên họp đầu tiên của Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026 triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội khóa XV về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, theo hình thức trực tuyến với các địa phương trên toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng với nhan đề: "Chính phủ mới: Khí thế mới, nỗ lực mới, quyết tâm phấn đấu lập nhiều thành tích mới”. Tạp chí Thi đua Khen thưởng trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại phiên họp của Chính phủ sáng 11/8. Ảnh: VGP. “Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Thưa các vị đại biểu, Thưa toàn thể các đồng chí tham dự Hội nghị tại Trung tâm Hội nghị và các điểm cầu địa phương. Hôm nay, tôi rất vui mừng được đến dự Phiên họp đầu tiên của Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026 - một Phiên họp có ý nghĩa rất quan trọng và đã được chuẩn bị rất chu đáo về nhiều phương diện, nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Trước hết, tôi xin được thay mặt các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và với tình cảm cá nhân, nhiệt liệt chào mừng các vị đại biểu cùng các đồng chí tham dự Hội nghị; và đặc biệt xin nhiệt liệt chúc mừng đồng chí Thủ tướng Phạm Minh Chính đã được Quốc hội bầu và các đồng chí thành viên Chính phủ được Quốc hội phê chuẩn với số phiếu tín nhiệm rất cao. Hội nghị của chúng ta hôm nay diễn ra vào thời điểm có nhiều sự kiện lớn của đất nước, thể hiện sự phối hợp rất nhịp nhàng, ăn khớp của cả hệ thống chính trị ở nước ta; sự đoàn kết nhất trí cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; một phương thức, cách làm rất bài bản, hợp lý, khoa học, theo tinh thần "Trên dưới đồng lòng", "tiền hô hậu ủng", "nhất hô bá ứng" và "dọc ngang thông suốt". Vì sao tôi dám nói như vậy? Tôi xin chứng minh: Trong bối cảnh tình hình trong nước và thế giới bên cạnh thuận lợi cũng có rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là phải đối phó với dịch bệnh COVID-19, chúng ta đã tiến hành rất thành công đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (tháng 01/2021); tiếp theo đó là 3 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng; tổ chức thắng lợi cuộc bầu cử Quốc hội khoá XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 với quy mô lớn nhất từ trước đến nay (tháng 5/2021); tiến hành Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa XV (tháng 7/2021) để kiện toàn bộ máy tổ chức, nhân sự và triển khai thực hiện các nghị quyết, quyết định của Đại hội XIII và các nghị quyết hội nghị của Trung ương Đảng. Các cấp, các ngành đã khẩn trương triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết, quyết định của Trung ương theo đúng tiến độ, kịp thời, với sự đồng thuận, nhất trí cao, dư luận quốc tế rất quan tâm. Chính phủ họp hôm nay cũng chỉ sau Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XV có mấy ngày. Tôi được biết, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng đang tích cực, khẩn trương chuẩn bị để sẽ họp Hội nghị toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng sau Hội nghị này của Chính phủ. Rõ ràng, đây là sự phối hợp rất cần thiết, rất nhịp nhàng, bài bản, và thực tế cho thấy đây là cách làm hợp lý, cho kết quả tốt đẹp. Chúng ta biết rằng, hệ thống chính trị ở nước ta gồm có 3 bộ phận: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chủ trương, phương hướng xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, mở rộng các quan hệ đối ngoại. Nhà nước (bao gồm Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp) quản lý có nghĩa là Nhà nước tổ chức, triển khai thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, biến nó thành hiện thực. Nhân dân (thông qua Mặt trận, các tổ chức quần chúng thành viên của Mặt trận) làm chủ là chủ thể thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, các chính sách, pháp luật của Nhà nước và được thụ hưởng các thành quả do mình làm ra. Riêng về các cơ quan nhà nước thì Quốc hội là cơ quan lập hiến, lập pháp, thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng; Chính phủ là cơ quan hành pháp, có trách nhiệm cụ thể hoá và tổ chức thực hiện, biến luật pháp của Nhà nước, tức cũng là đường lối của Đảng thành hiện thực, tạo ra của cải vật chất, quản lý xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho toàn thể nhân dân, cho đất nước; các cơ quan tư pháp (gồm Tòa án, Viện Kiểm sát,...) là cơ quan bảo vệ pháp luật, giữ gìn trật tự, an toàn cho xã hội, cho nhân dân. Hôm nay, được họp với Chính phủ, tôi xin chỉ tập trung nói riêng về Chính phủ (các nguyên tắc, nội dung, cơ chế hoạt động của Chính phủ) đặt trong mối quan hệ tổng thể của các cơ quan nhà nước, của cả hệ thống chính trị ở nước ta, để chúng ta có cái nhìn bao quát chung về sự lãnh đạo của Đảng, trách nhiệm quản lý của Nhà nước và vai trò làm chủ của Nhân dân, nhằm một mục tiêu chung là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thưa các đồng chí, Như chúng ta đã biết, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 02 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Tuyên cáo với quốc dân đồng bào, với toàn thế giới về việc thành lập Chính phủ Lâm thời của Việt Nam và đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ngay sau khi Quốc hội khóa I ra đời (tháng 3/1946), Chính phủ Liên hiệp kháng chiến hợp hiến, hợp pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã được thành lập để điều hành đất nước. Từ đó đến nay, trải qua hơn 75 năm, với 15 nhiệm kỳ hoạt động, dưới nhiều tên gọi khác nhau, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trước đây cũng như Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay, đã luôn luôn gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, không ngừng phát huy vai trò, vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp; thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý, điều hành phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại,... theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật, có những đóng góp to lớn và quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960, Chính phủ đã cùng nhân dân cả nước tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, từng bước cải cách dân chủ, thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược; vừa khôi phục, phát triển kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, vừa tiếp tục đấu tranh giành độc lập ở miền Nam và thống nhất đất nước. Từ năm 1960 đến năm 1975, hoạt động trong thời kỳ nước ta thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược (Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và Đấu tranh giải phóng miền Nam), Chính phủ đã có những đóng góp to lớn vào việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn, thu non sông về một mối. Từ năm 1976 đến nay, Chính phủ nước ta là Chính phủ của nước Việt Nam thống nhất; tiếp tục kế thừa và phát huy những thành quả và kinh nghiệm của Chính phủ các khoá trước, ngày càng chủ động, tích cực trong công cuộc khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội sau chiến tranh (1976 - 1985); năng động, sáng tạo trong triển khai thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo (từ năm 1986 đến nay), cùng với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta có những đóng góp xứng đáng vào thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, làm cho đất nước ta ngày càng phát triển, chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đặc biệt là 5 năm gần đây, nắm bắt được thuận lợi, thời cơ, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là tác động của đại dịch COVID-19 và thiên tai liên tiếp xảy ra, Chính phủ đã cùng với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quyết tâm, bản lĩnh đổi mới, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật; đất nước phát triển nhanh và bền vững; góp phần củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhìn một cách tổng thể, chúng ta nhận thấy, mỗi nhiệm kỳ của Chính phủ đều đã để lại những dấu ấn riêng và đều hoàn thành trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Luật Tổ chức Chính phủ trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật; hoạch định chính sách và trình dự án luật, pháp lệnh; quản lý nhà nước, chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội; quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; phát triển văn hóa, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, thông tin và truyền thông; thực hiện các chính sách xã hội, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo; bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế... Cần phải khẳng định, những thành tựu đạt được của Chính phủ trong 75 năm qua bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta - nhân tố quyết định để Chính phủ hoàn thành xuất sắc trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng giao phó. Chính phủ các khoá đã luôn luôn nắm vững đường lối, quan điểm và các chủ trương, chính sách của Đảng để cụ thể hóa và thể chế hóa thành luật pháp và vận dụng đúng đắn vào các hoạt động của Chính phủ. Đó là kết quả của sự gắn bó mật thiết giữa Đảng, Quốc hội và Chính phủ với các tầng lớp nhân dân, bám sát thực tế, nắm bắt đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; lắng nghe và tiếp nhận các ý kiến, kiến nghị xác đáng để không ngừng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, đó cũng là kết quả của quá trình đổi mới không ngừng về tổ chức bộ máy, phương thức và lề lối làm việc, nâng cao năng lực, chất lượng và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Chính phủ và chính quyền các cấp; với sự ủng hộ, phối hợp chặt chẽ, cộng đồng trách nhiệm của Quốc hội, Chủ tịch nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan hữu quan khác. Thưa các đồng chí, Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thành công tốt đẹp, nhất trí cao đề ra Chiến lược xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, trong đó có Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Tầm nhìn đến năm 2045, đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao và Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025. Hội nghị Trung ương 3 vừa qua đã kiện toàn một bước các nhân sự chủ chốt trong hệ thống chính trị, ban hành Kết luận về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tài chính quốc gia, đầu tư công trung hạn 5 năm 2021 - 2025; và đã được Quốc hội khóa XV nhất trí, thể chế hoá tại Kỳ họp thứ nhất mới đây. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang khẩn trương, tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và các kết luận, quyết định chỉ đạo của Trung ương trong bối cảnh, tình hình có nhiều khó khăn, thách thức lớn hơn trước và gay gắt hơn so với dự báo. Từ đầu năm đến nay, cả nước vẫn phải tiếp tục nỗ lực, quyết liệt chống dịch COVID-19; đợt bùng phát dịch lần thứ tư lây lan rất nhanh, hết sức nguy hiểm, phức tạp, khó kiểm soát và có thể còn tiếp tục kéo dài; thậm chí vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát các đợt dịch mới. Kinh tế - xã hội nước ta tuy tiếp tục phát triển, đạt được nhiều kết quả tích cực so với cùng kỳ năm 2020 nhưng vẫn thấp hơn mục tiêu đề ra. Sản xuất kinh doanh và đời sống của nhân dân, nhất là ở những vùng có dịch và những ngành, lĩnh vực chịu ảnh hưởng trực tiếp của đại dịch gặp nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế thế giới có dấu hiệu phục hồi, tăng trưởng trở lại nhưng chưa thật vững chắc; thương mại và đầu tư quốc tế suy giảm; nợ công toàn cầu tăng mạnh, thị trường tài chính - tiền tệ thế giới tiềm ẩn nhiều rủi ro, vẫn còn nguy cơ lâm vào khủng hoảng. Đại dịch COVID-19 có thể còn tiếp tục diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, tác động tiêu cực, kéo dài đến kinh tế thế giới, khu vực, trong đó có khu vực Đông Nam Á và nước ta; làm thay đổi sâu sắc trật tự, cấu trúc kinh tế, phương thức quản trị và tổ chức hoạt động kinh tế và đời sống xã hội toàn cầu, buộc nhiều nước phải thay đổi định hướng, chiến lược phát triển kinh tế theo hướng nâng cao nội lực, chú trọng phát triển thị trường trong nước, phát triển kinh tế số, xã hội số... Để hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội XIII, Hội nghị Trung ương 3 của Đảng và Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa XV đã đề ra, Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026 cần tiếp tục phát huy mạnh hơn nữa, tốt hơn nữa truyền thống vẻ vang, những kết quả, thành tích to lớn và những bài học kinh nghiệm quý báu mà Chính phủ qua các thời kỳ đã đạt được; nỗ lực phấn đấu cao hơn nữa trên con đường đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động trong giai đoạn phát triển mới. Tập trung ưu tiên thực hiện 6 nhiệm vụ trọng tâm và 3 đột phá chiến lược, xử lý dứt điểm những "điểm nghẽn", vướng mắc, tồn tại để phát triển đất nước nhanh và bền vững hơn trên cơ sở tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của đất nước; cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; thực hiện đồng bộ các giải pháp khắc phục có hiệu quả tác động của đại dịch COVID-19, nhanh chóng phục hồi và phát triển kinh tế; phát huy mạnh mẽ các giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam và sức sáng tạo của mỗi cá nhân; từng bước xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; bảo đảm cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân; chú trọng bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; tăng cường quốc phòng, an ninh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong quá trình này, cần phải luôn luôn quan tâm nghiên cứu, nắm chắc và quán triệt thật sâu sắc các vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản, có tính nguyên tắc rất quan trọng đã được thể hiện trong Cương lĩnh, đường lối cơ bản của Đảng ta về cách mạng nước ta. Đặc biệt là một số vấn đề sau đây: Một là, về phát triển kinh tế: Mô hình kinh tế mà chúng ta xây dựng là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Theo đó, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế hỗn hợp, đa sở hữu, nhất là các doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện đầy đủ và đúng đắn chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai là, về phát triển văn hoá, xã hội: Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: Không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không "hy sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội đều phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với bảo đảm an sinh xã hội, xoá đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và xác định phát triển văn hóa đồng bộ, tương xứng với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội cũng là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hoá mà Việt Nam xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, giàu bản sắc của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Chúng ta xác định: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là một xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội. Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ, như trên tôi đã nói. Ba là, về tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại: Tình hình thế giới, trong nước đang diễn biến nhanh chóng, phức tạp đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quan tâm giữ vững độc lập, tự chủ; tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng - an ninh theo đúng phương châm: "phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên". Trong mọi chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải luôn luôn quan tâm vấn đề quốc phòng, an ninh. Sớm cụ thể hóa và thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh; đến năm 2030, xây dựng một số quân chủng, binh chủng, lực lượng hiện đại; phấn đấu từ năm 2030, xây dựng quân đội hiện đại. Phấn đấu đến năm 2030 xây dựng lực lượng Công an nhân dân tinh nhuệ, hiện đại. Xây dựng "thế trận lòng dân", thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Quân đội và Công an phải phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với nhau như hai cái cánh của một con chim trong sự nghiệp bảo vệ độc lập và giữ gìn trật tự an ninh của Tổ quốc. Kịp thời phát hiện, chủ động xử lý có hiệu quả các vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự; không để xẩy ra các "điểm nóng", phù hợp với tình hình dịch bệnh đang diễn biến rất phức tạp. Kịp thời đấu tranh trấn áp có hiệu quả các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm ma tuý… Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng thực chất và đi vào chiều sâu. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả công tác đối ngoại của Đảng với ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Nâng cao năng lực hội nhập, nhất là cấp vùng và địa phương, doanh nghiệp; tận dụng tối đa các cơ hội từ quá trình hội nhập mang lại, nhất là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã ký kết. Xây dựng nền ngoại giao hiện đại, trong đó chú trọng đẩy mạnh ngoại giao quốc phòng, an ninh để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy. Tăng cường ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ. Mở rộng và nâng cao hiệu quả ngoại giao văn hóa, đối ngoại nhân dân, đóng góp thiết thực vào việc quảng bá hình ảnh, thương hiệu quốc gia và tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước. Bốn là, về xây dựng tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ: Đây là vấn đề cơ bản, rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ hoạt động của Chính phủ. Vì vậy, tôi đề nghị Chính phủ, các cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền các cấp cần đặc biệt quan tâm, làm tốt hơn nữa công tác này, thực hiện nghiêm Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các luật khác có liên quan nhằm xây dựng tổ chức, bộ máy và cán bộ thật sự trong sạch, vững mạnh, có đủ bản lĩnh, trí tuệ, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và trình độ chuyên môn vững vàng. Tránh tình trạng chỉ lo công tác chuyên môn đơn thuần. Đồng thời tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo và lề lối làm việc của các cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật, đáp ứng yêu cầu "đúng vai, thuộc bài" như tôi vẫn thường nói. Chú trọng hơn nữa đến việc cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành; nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy tổ chức, cán bộ; xây dựng có cơ sở khoa học và tổ chức thực hiện thật tốt các chương trình, kế hoạch công tác, dành thời gian thoả đáng cho việc tập trung nghiên cứu, xem xét, xử lý một cách căn cơ, bài bản, dứt điểm, có trọng tâm, trọng điểm các vấn đề kinh tế - xã hội nổi cộm, tránh hình thức, phô trương, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm. Đặc biệt là cần phải đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc phân cấp, phân quyền, phân công, phối hợp, gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan, đơn vị thuộc Chính phủ, chính quyền các địa phương và giữa các cơ quan, đơn vị này với các cơ quan, đơn vị của Đảng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, hệ thống các cơ quan tư pháp và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; bảo đảm cả hệ thống tổ chức bộ máy luôn luôn vận hành một cách đồng bộ, thống nhất; tránh tình trạng "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược", "quyền anh, quyền tôi", "cua cậy càng, cá cậy vây". Đồng thời, tiếp tục thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", gắn với việc đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách thực chất theo Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 mới đây của Bộ Chính trị. Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Làm tốt hơn nữa công tác cán bộ, nhất là việc quản lý, nhận xét, đánh giá cán bộ để lựa chọn, bố trí đúng những người thật sự có đức, có tài; thật sự"cần, kiệm, liêm, chính", "chí công vô tư"; thật sự tâm huyết vì nước, vì dân vào các vị trí lãnh đạo của bộ máy chính phủ và chính quyền các cấp. Đừng "nhìn gà hoá cuốc", "đừng thấy đỏ tưởng là chín", đừng bị cám dỗ bởi những lợi ích xấu xa, những việc làm vô liêm sỉ. Kiên quyết đấu tranh loại bỏ những phần tử hư hỏng, suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; chống mọi biểu hiện chạy chức, chạy quyền, cục bộ, ưu ái tuyển dụng người nhà, người thân không đủ tiêu chuẩn. Phát huy dân chủ, nâng cao ý thức trách nhiệm, nêu gương, tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức. Sớm nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích và bảo vệ những tổ chức và cá nhân dám đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Các đề xuất đổi mới đúng đắn, hợp lý phải được cấp ủy, chính quyền bàn bạc, xem xét kỹ lưỡng, cho làm thí điểm theo thẩm quyền; cái gì đổi mới đúng thì phải được bảo vệ, tiếp tục triển khai; cái gì sai thì phải kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn, sửa chữa, rút kinh nghiệm. "Phải trái phân minh", "nghĩa tình trọn vẹn"; không được "dĩ hòa vi quý". Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong thực thi công vụ; nâng cao đạo đức, văn hóa, tính chuyên nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức. Kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực gắn với đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách để "không thể, không dám, không muốn, không cần tham nhũng". Đồng thời, chấn chỉnh, đấu tranh loại bỏ tư tưởng bàn lùi, vin cớ rằng việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực sẽ cản trở sự phát triển, làm nhụt chí dẫn đến làm "cầm chừng", "phòng thủ", "che chắn", giữ "an toàn" trong một bộ phận cán bộ, công chức nào đó, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Tôi đã nhiều lần nói rồi; nay xin nhắc lại: Những ai có tư tưởng này thì hãy dẹp sang một bên cho người khác làm! Tiền bạc lắm làm gì, chết có mang theo được đâu; Danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất! Thưa các đồng chí, Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam, kiên định con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; với sự nỗ lực, cố gắng, quyết tâm cao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và cơ quan trực thuộc Chính phủ; với sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; sự ủng hộ và giám sát của nhân dân; sự hợp tác và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026 nhất định sẽ phát huy những kết quả, kinh nghiệm và truyền thống vẻ vang của 75 năm qua, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tổ chức và phương thức hoạt động, đạt được nhiều kết quả quan trọng, đóng góp to lớn hơn nữa vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xứng đáng với vị trí, vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; là cơ quan trực tiếp tổ chức, quản lý, triển khai thực hiện có hiệu quả mọi chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, biến đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước thành hiện thực sinh động, mang lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, làm vẻ vang cho Dân tộc, cho giống nòi. Xin chúc Chính phủ nhiệm kỳ mới 2021 - 2026: Khí thế mới, nỗ lực mới, quyết tâm phấn đấu lập nhiều thành tích mới, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với niềm tin yêu và kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân! Xin trân trọng cảm ơn!”

Khánh Hòa hướng dẫn khen thưởng thành tích phòng, chống dịch Covid-19

TĐKT - Ngày 29/7/2021, UBND tỉnh Khánh Hòa đã ban hành hướng dẫn nhằm giúp các cơ quan, đơn vị, địa phương có cơ sở đánh giá, biểu dương, tôn vinh khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc tiêu biểu trong công tác phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn. Qua đó, góp phần cổ vũ, tuyên truyền, nhân rộng các gương điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trong phòng, chống dịch bệnh. Các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc tiêu biểu trong công tác phòng, chống dịch Covid-19 sẽ được biểu dương, khen thưởng kịp thời Ông Văn Ngọc Sen - Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tỉnh, Phó Giám đốc Sở Nội vụ tỉnh Khánh Hòa cho biết: Đối tượng được xem xét khen thưởng là các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác phòng, chống dịch Covid-19. Tỉnh sẽ tập trung khen thưởng và đề nghị cấp trên khen thưởng đối với: Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trực tiếp tham gia phòng, chống dịch tại tuyến đầu; tập thể trực tiếp tham gia phòng, chống dịch; cá nhân, tập thể, doanh nghiệp tham gia hỗ trợ, giúp đỡ trong công tác phòng, chống dịch về trang thiết bị, vật tư y tế, phương tiện, kinh phí, cơ sở vật chất; tập thể, cá nhân có ý tưởng mới, sáng tạo, tham gia cổ vũ, động viên, trợ giúp công tác phòng, chống dịch. Về tiêu chuẩn khen thưởng, tập thể, cá nhân có thành tích đặc biệt xuất sắc trong công tác phòng, chống dịch Covid-19, có phạm vi ảnh hưởng và nêu gương, lan tỏa trong toàn quốc trên các lĩnh vực: Y tế, quốc phòng - an ninh, giáo dục và đào tạo, tài chính, công thương, giao thông vận tải, nông nghiệp, khoa học và công nghệ, thông tin và truyền thông, hợp tác quốc tế, an sinh xã hội… hoặc có đóng góp lớn về vật chất, phương tiện, trang thiết bị cần thiết, góp phần tích cực vào công tác phòng, chống dịch, được cấp có thẩm quyền ghi nhận, đánh giá cao được đề nghị tặng Huân chương Lao động. Tập thể, cá nhân được đề nghị tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ khi đạt các tiêu chuẩn sau: Có thành tích tiêu biểu xuất sắc trong công tác phòng, chống dịch Covid-19; hoặc có nhiều đóng góp về vật chất, phương tiện, trang thiết bị cần thiết; hoặc có ý tưởng sáng tạo, tham gia tuyên truyền, cổ vũ, góp phần tích cực vào công tác này. Có phạm vi ảnh hưởng, nêu gương, lan tỏa trong toàn tỉnh. Tập thể, cá nhân được đề nghị tặng Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh khi đạt các tiêu chuẩn: Có thành tích xuất sắc trong phòng, chống dịch Covid-19; hoặc có nhiều đóng góp về vật chất, phương tiện, trang thiết bị cần thiết; hoặc có ý tưởng sáng tạo, tham gia tuyên truyền, cổ vũ, góp phần tích cực vào công tác này. Đồng thời, có phạm vi ảnh hưởng, nêu gương, lan tỏa trong toàn cấp huyện hoặc toàn sở, ban, ngành, doanh nghiệp thuộc tỉnh, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội tỉnh. Tiêu chuẩn đề nghị tặng giấy khen được thực hiện theo quy định. Các sở, ban, ngành, doanh nghiệp, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội tỉnh, UBND cấp huyện xét chọn, khen thưởng, đề nghị cấp trên khen thưởng theo nguyên tắc: Cấp nào quản lý về tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và quỹ lương, cấp đó có trách nhiệm khen thưởng và trình cấp trên khen thưởng các đối tượng thuộc phạm vi quản lý. Việc đề nghị khen thưởng thực hiện theo trình tự, thủ tục đơn giản quy định tại Điều 55 Nghị định số 91 ngày 31/7/2017 của Chính phủ. Hồ sơ đề nghị khen thưởng gửi về Sở Y tế (Phòng Tổ chức - Hành chính) và gửi kèm tệp văn bản điện tử hoặc qua thư điện tử bs.dangquang@gmail.com. Sở Y tế nhận hồ sơ từ ngày 30/7/2021. Nguyễn Vũ  

Thường trực Ủy ban Xã hội thẩm tra dự án Luật Thi đua, Khen thưởng (sửa đổi)

Chiều 2/8, tại trụ sở các cơ quan Quốc hội, với sự chủ trì của Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh, Thường trực Ủy ban Xã hội đã họp mở rộng, thẩm tra sơ bộ dự án Luật Thi đua, Khen thưởng (sửa đổi). Phiên họp mở rộng của Thường trực Ủy ban Xã hội thẩm tra dự án Luật Thi đua, Khen thưởng (sửa đổi) Dự phiên họp có: Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà; các Ủy viên Thường trực Ủy ban Xã hội; đại diện Thường trực Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, một số bộ, ngành liên quan. Trình bày Tờ trình dự án Luật Thi đua, Khen thưởng (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà cho biết, sau 17 năm thực hiện, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần được nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện để phù hợp hơn với thực tiễn. Việc sửa đổi, bổ sung Luật nhằm thể chế đường lối, chủ trương của Đảng về công tác thi đua khen thưởng; Chỉ thị số 34-CT/TW, ngày 7/4/2014 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”, nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu trong chỉ đạo tổ chức phong trào thi đua; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp; tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng; đồng thời, thực hiện phân cấp về thẩm quyền khen thưởng và đề nghị cấp trên khen thưởng cho các bộ, ban, ngành, địa phương, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể Trung ương và cấp cơ sở nhằm giải quyết các hạn chế, vướng mắc về thẩm quyền, đối tượng, tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục khen thưởng. Việc sửa đổi, bổ sung Luật còn nhằm tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc và cả hệ thống chính trị, tạo động lực to lớn góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của từng bộ, ngành, địa phương và của đất nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau khi sửa đổi, bổ sung, dự thảo Luật có 8 chương và 100 điều, trong đó, bổ sung danh hiệu thi đua “xã tiêu biểu”, “phường, thị trấn tiêu biểu”; bổ sung thẩm quyền của “người đứng đầu” cơ quan, tổ chức, đơn vị phát động, chỉ đạo phong trào thi đua; bổ sung quy định về trách nhiệm phát hiện, tuyên truyền, phổ biến và nhân rộng các gương điển hình tiên tiến của cơ quan, tổ chức, đơn vị phát động phong trào thi đua; quy định cụ thể tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua các cấp; bổ sung hình thức khen thưởng huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang; bỏ đối tượng xét danh hiệu “Nghệ sĩ nhân dân”, “Nghệ sĩ ưu tú” đối với “nhạc sĩ“ và “phát thanh viên”… Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thị Kim Thúy thay mặt Nhóm nghiên cứu của Thường trực Ủy ban trình bày một số vấn đề lớn của dự án Luật Trình bày báo cáo của Nhóm Nghiên cứu Ủy ban Xã hội về dự án Luật, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thị Kim Thúy cho biết, Luật Thi đua, khen thưởng được ban hành năm 2003, đến nay đã qua 2 lần sửa đổi vào các năm 2005 và 2013. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện Luật đã bộc lộ những bất cập, không còn phù hợp với thực tiễn cần thiết phải sửa đổi, bổ sung. Theo chương trình, dự án Luật này sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ Hai và xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ Ba.  Về quan điểm chỉ đạo, Nhóm Nghiên cứu đề nghị cơ quan soạn thảo quan tâm thêm một số chủ trương lớn được quy định tại Thông báo số 120 ngày 18/1/2013 và Chỉ thị số 34 ngày 7/4/2014 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, cụ thể: tránh tình trạng khen thưởng tràn lan, không thực chất; giảm bớt hình thức cấp Nhà nước, nâng cao tiêu chuẩn các hình thức khen thưởng, khen thưởng bảo đảm chính xác, không trùng lắp, chồng chéo; tập trung hướng về cơ sở, chú trọng khen thưởng cơ sở nhỏ, quan tâm đến các cơ sở vùng sâu, xa, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số; đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi đua, khen thưởng. Góp ý về dự thảo Luật, một số đại biểu đề nghị, cơ quan soạn thảo cân nhắc bổ sung các danh hiệu thi đua “Xã tiêu biểu”, “Phường, thị trấn tiêu biểu” (Điều 27 dự thảo Luật) với lý do các tiêu chuẩn quy định tại khoản 1, Điều 27 trùng lặp với các tiêu chí đạt danh hiệu nông thôn mới trong bộ tiêu chí quốc gia về đạt tiêu chuẩn “xã nông thôn mới” trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2026. Bên cạnh đó, các đại biểu cho rằng, các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung của dự án Luật có liên quan đến một số Luật hiện hành như Luật Di sản văn hóa, Luật Cán bộ công chức, Luật Viên chức, Luật Khoa học công nghệ, Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng… Do đó, cần tiếp tục rà soát nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của dự án Luật. Theo Báo điện tử Đại biểu nhân dân

Nâng cao chất lượng công tác tuyên giáo trong giai đoạn mới

Ngày 1/8/1930 được chọn là Ngày truyền thống ngành Tuyên giáo của Đảng, nhưng trên thực tế, công tác tuyên giáo đã có từ trước khi thành lập Đảng, từ khi Nguyễn Ái Quốc bắt đầu các hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường cứu nước vào Việt Nam.   Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết công tác tuyên giáo 6 tháng đầu năm, phương hướng, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2021. XỨNG ĐÁNG VỚI SỰ TIN CẬY CỦA ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN Nhìn lại chặng đường vẻ vang 91 năm qua (1/8/1930 - 1/8/2021), chúng ta vô cùng tự hào dù ở bất kỳ giai đoạn nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào, đội ngũ những người làm công tác tuyên giáo của Đảng đều nỗ lực phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trước Đảng, đất nước và nhân dân, xứng đáng với sự tin cậy của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Thời gian qua, vượt lên nhiều khó khăn, thách thức, nhất là ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, ngành Tuyên giáo không ngừng đổi mới, từng bước nâng cao chất lượng và đạt được những thành tựu quan trọng. Thứ nhất, công tác tuyên giáo đã có đóng góp tích cực vào thành công của các sự kiện trọng đại của đất nước  như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026… Ngay sau Đại hội Đảng, Ban Tuyên giáo Trung ương đã tham mưu Ban Bí thư Trung ương tổ chức sớm hơn các nhiệm kỳ trước Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng bằng hình thức trực tuyến với hơn 1 triệu cán bộ, đảng viên tham dự, đông nhất từ trước tới nay; tổ chức thành công Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”... Việc tham mưu tổ chức các hội nghị trực tuyến sớm, có nhiều đổi mới, mở rộng từ Trung ương tới cấp cơ sở nhận được sự đồng tình, ủng hộ và hoan nghênh của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần sớm đưa nghị quyết của Đảng và cuộc sống. Thứ hai, huy động sức mạnh tổng hợp của các binh chủng trong công tác thông tin tuyên truyền (tuyên truyền tổng hợp, dư luận xã hội, báo chí - xuất bản, tuyên truyền miệng, tuyên truyền thông tin đối ngoại, các báo và tạp chí từ Trung ương đến cơ sở) để tạo sự thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận cao trong xã hội đối với các sự kiện: Đại hội XIII của Đảng, Bầu cử Quốc hội khoá XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026; các chủ trương, biện pháp phòng, chống đại dịch COVID-19; thực hiện “mục tiêu kép” của Chính phủ: vừa chống dịch COVID-19 có hiệu quả vừa phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội đạt kết quả tích cực; hai Đề án trình Ban Bí thư được đánh giá có chất lượng. Thứ ba, tuyên truyền, tạo sức lan tỏa sâu rộng bài viết mang tầm cao tư tưởng và trí tuệ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” trên các phương tiện thông tin đại chúng. Qua đó, tiếp tục khẳng định mạnh mẽ mục tiêu, lý tưởng con đường mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Thứ tư, tăng cường nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội; đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch chống phá các nội dung văn kiện, nhân sự Đại hội XIII của Đảng, Bầu cử Quốc hội khoá XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026; các chủ trương và biện pháp phòng, chống đại dịch COVID-19 và lập “Quỹ vắc-xin phòng COVID-19” được đánh giá hiệu quả; công tác khoa giáo được quan tâm chỉ đạo, đạt một số kết quả tích cực, nhất là trên lĩnh vực y tế đóng vai trò xung kích đi đầu phòng, chống đại dịch COVID-19... Niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước tăng lên trong các tầng lớp nhân dân. Đó là thời cơ để ngành Tuyên giáo khẳng định vai trò định hướng tư tưởng chính trị, tạo sự thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận cao trong xã hội.   ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NGÀY CÀNG CAO CỦA SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Năm nay, kỷ niệm 91 năm Ngày truyền thống ngành Tuyên giáo của Đảng trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tràn đầy niềm vui về thành công của Đại hội XIII của Đảng và cuộc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và đang tích cực, khí thế triển khai Nghị quyết Đại hộivới khát vọng phát triển đất nước. Niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước tăng lên trong các tầng lớp nhân dân. Đó là thời cơ để ngành Tuyên giáo khẳng định vai tròđịnh hướng tư tưởng chính trị, tạo sự thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận cao trong xã hội. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”(1). Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ mà Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao, công tác tuyên giáo trong thời gian tới tập trung vào các nhiệm vụ và giải pháp căn bản sau đây: Một là, tập trung tuyên truyền khát vọng vươn lên và ý chí, quyết tâm chính trị cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhất định sẽ lập nên những kỳ tích phát triển mới để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng theo chủ đề của Đại hội: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(2). Với hướng đi đúng đắn hợp quy luật, khát vọng phát triển và quyết tâm chính trị cao, đất nước ta nhất định sẽ lập nên kỳ tích phát triển mới vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng từ hàng ngàn năm của dân tộc ta. Do vậy, việc tiếp tục tuyên truyền Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng rất quan trọng như đồng chí Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng đã giao nhiệm vụ cho ngành Tuyên giáo: “Công tác tuyên truyền Đại hội XIII của Đảng phải được tiến hành thường xuyên, bền bỉ, đồng bộ, sáng tạo, với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với từng đối tượng, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống tuyên giáo các cấp, các cơ quan báo chí, xuất bản, đội ngũ giảng viên lý luận chính trị, văn nghệ sĩ, báo cáo viên, tuyên truyền viên”(3). Hai là, tập trung tuyên truyền những nhiệm vụ trọng tâm, các đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng. Ba đột phá chiến lược do Đại hội XI và XII của Đảng xác định vẫn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa giá trị lâu dài và sẽ được cụ thể hoá phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Trong nhiệm kỳ Đại hội XIII, để phù hợp với điều kiện, yêu cầu mới, cần tập trung vào các đột phá cụ thể: Về hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả,...; về phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở đổi mới toàn diện, căn bản giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài; đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển mạnh khoa học và công nghệ; phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam…; về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội; tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số. Ba là, tiếp tục tập trung tuyên truyền có hệ thống bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” với nhiều hình thức sáng tạo, như: tổ chức hội thảo, tọa đàm, mời các chuyên gia trao đổi trên Đài truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam; tiếp tục đăng tải ý kiến của các chuyên gia trong nước và quốc tế phân tích sâu sắc bài viết của Tổng Bí thư để định hướng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức sâu sắc và tăng niềm tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay như Tổng Bí thư đã khẳng định: “Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội”(4). Bốn là, góp phần đắc lực vào tuyên truyền các chủ trương, biện pháp chống đại dịch COVID-19 của Đảng và Nhà nước theo phương châm: “Chống dịch như chống giặc”, “Mỗi người dân là một chiến sỹ”, “Coi sức khoẻ và tính mạng con người là trên hết”... Hiện nay, trước đợt bùng phát đại dịch thứ tư với biến thể Delta tăng độ lây nhiễm nhanh, Chính phủ đề ra phương châm mới: 5K + vắc-xin và áp dụng khoa học công nghệ đang có hiệu quả. Đồng thời công tác tuyên giáo tham gia tích cực vào việc thực hiện “mục tiêu kép” của Chính phủ: vừa chống dịch có hiệu quả vừa phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội để thực hiện thành công các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội do Đại hội XIII đề ra. Năm là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng công tác tuyên giáo trong tình hình mới. Tập trung vào những dự báo chiến lược để chủ động tham mưu Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp uỷ các cấp giải quyết những vấn đề do lý luận và thực tiễn đặt ra trước những diễn biến nhanh, khó lường của thế giới và khu vực, nhất là trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để đất nước không bị bất ngờ trong bất cứ hoàn cảnh nào; bám sát những vấn đề thực tiễn của đất nước, đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các lĩnh vực trên cơ sở tăng cường tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả; tiếp tục tuyên truyền việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khoá XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị và việc nêu gương của cán bộ, đảng viên ở các cấp, nhất là của người đứng đầu như ý kiến chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương: “Các cán bộ, đảng viên và người lao động thể hiện nhận thức về học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác bằng việc làm thiết thực, hiệu quả; thực hiện tốt phương châm “Nói đi đôi với làm”; lấy đổi mới là phương pháp tư duy, lấy hiệu quả nêu gương và hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ được giao làm cơ sở đánh giá kết quả làm theo”(5).  Khắc phục cách làm áp đặt, tuyên truyền một chiều, gây giảm niềm tin trong một bộ phận cán bộ và nhân dân. Thực hiện tốt phương châm “Ta hiểu đúng ta cũng chính là chống lại kẻ thù”. Đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại để quảng bá hình ảnh Việt Nam. Quan tâm nhiều hơn công tác tư tưởng với thế hệ trẻ, trí thức, văn nghệ sĩ, công nhân, nông dân và doanh nghiệp.   Sáu là, chủ động đấu tranh có hiệu quả với các âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá XII về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, ngăn chặn và đẩy lùi các hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Bảy là, chủ động nắm chắc tình hình tư tưởng, bám sát các sự kiện, các nhiệm vụ lớn của đất nước, các lĩnh vực nhạy cảm về văn hoá - văn nghệ, giáo dục - đào tạo, an sinh xã hội. Ngành Tuyên giáo thật sự đi đầu trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực cách mạng công nghiệp lần thứ tư, một đòi hỏi cấp thiết cả trước mắt và lâu dài để góp phần thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo mục tiêu Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Tám là, khắc phục cách làm áp đặt, tuyên truyền một chiều, gây giảm niềm tin trong một bộ phận cán bộ và nhân dân. Thực hiện tốt phương châm “Ta hiểu đúng ta cũng chính là chống lại kẻ thù”. Đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại để quảng bá hình ảnh Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn trong sự nghiêp đổi mới, những thành tựu của công tác bảo vệ nhân quyền ra cộng đồng thế giới và kiều bào ta ở nước ngoài. Quan tâm nhiều hơn công tác tư tưởng với thế hệ trẻ, trí thức, văn nghệ sĩ, công nhân, nông dân và doanh nghiệp. Chín là, tham mưu tích cực vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực do Đảng ta lãnh đạo tiến hành hết sức quyết liệt và ngày càng có hiệu quả theo tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là “không có ngoại lệ”, “không có vùng cấm”. Việc tuyên truyền cuộc đấu tranh này phải kịp thời, minh bạch theo lời dạy của Lê-nin: “Công khai là thanh bảo kiếm sớm chữa lành các vết thương”. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện phương châm: “Lấy cái đẹp dẹp cái xấu. Lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực”. Tích cực tuyên truyền các phong trào thi đua yêu nước, những nhân tố mới, điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt trên các lĩnh vực của đời sống xã hội để cổ vũ, biểu dương những tấm gương nỗ lực, phấn đấu không mệt mỏi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kỷ niệm 91 năm Ngày truyền thống ngành Tuyên giáo là dịp những cán bộ làm công tác tuyên giáo ôn lại truyền thống vẻ vang và những thành tựu tự hào của ngành, đồng thời rút ra những kinh nghiệm quý báu, thể hiện niềm tin mãnh liệt và nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, chủ động, sáng tạo, năng động, không ngừng đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng công tác tuyên giáo để xứng đáng là những chiến sĩ xung kích trên mặt trận tư tưởng của Đảng, hoàn thành xuất sắc nhiêm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, góp phần hiện thực hóa khát vọng đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa./. TS. BÙI THẾ ĐỨC Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Trung ương                            Nguyên Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Theo tuyengiao.vn

Bác Hồ luôn dành tình cảm đặc biệt đối với thương binh, liệt sĩ

TĐKT - Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến các chiến sĩ, thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ. Đó là những người con dũng cảm xả thân cho Tổ quốc được độc lập, tự do; cống hiến cả tuổi thanh xuân của mình cho tương lai đất nước. Người nêu rõ: “Máu đào của các thương binh, liệt sĩ đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết trái tự do”. Dù có bận trăm công nghìn việc đi chăng nữa thì hằng năm, cứ đến ngày 27/7, Bác đều trực tiếp gửi thư, tặng quà, đi thăm các thương binh, gia đình liệt sĩ và viếng các anh hùng liệt sĩ ở nghĩa trang. Bác Hồ viếng nghĩa trang liệt sĩ. (Ảnh tư liệu) Ngay từ ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, đất nước đang trong cảnh thù trong, giặc ngoài “nghìn cân treo sợi tóc”, Bác luôn nghĩ đến công ơn của các thương binh, liệt sĩ. Với âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa, ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng tấn công Sài Gòn. Nhân dân Nam Bộ chưa kịp hưởng niềm vui độc lập và cuộc sống thanh bình lại phải tiếp tục vùng lên cứu nước. Để bảo vệ Tổ quốc thân yêu, rất nhiều người con ưu tú của dân tộc đã hiến dâng tuổi thanh xuân và cả cuộc đời mình cho đất nước. Họ đã ngã xuống trên chiến trường miền Nam hoặc khi trở về đã mang thương tật suốt đời vì nền độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Tháng 12/1945, trong thư “Gửi các chiến sĩ Nam Bộ và Nam phần Trung Bộ”, Bác tin tưởng rằng: “Với một nước đã có những người con hy sinh như thế, anh hùng như thế, đã có một khối toàn dân đoàn kết như thế, nước ta nhất định không mất lại một lần nữa. Để bảo vệ Tổ quốc, chúng ta còn phải chiến đấu nhiều. Chỉ có chiến đấu mới vượt được những trở lực, khó khăn, chỉ có chiến đấu mới đưa lại vẻ vang cho Tổ quốc. Các bạn ở tiền tuyến không bao giờ cô độc, vì đã có cả một khối đoàn kết làm hậu thuẫn cho mình. Thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”. Nhằm chia sẻ nỗi đau của hàng triệu thân nhân liệt sĩ, những bậc ông bà, cha mẹ, những người chồng, người vợ và những người con đã mãi mãi không thể gặp lại những người thân yêu nhất của mình, trong bức thư đăng trên báo Cứu quốc ngày 7/1/1946, Người viết: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những liệt sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập, thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mạng, hoặc trong thời kỳ kháng chiến, tôi gửi lời chào thân ái đến các gia đình liệt sĩ và tôi nhận các con liệt sĩ làm con nuôi của tôi”. Bác Hồ với anh hùng và chiến sĩ thi đua miền Nam (tháng 11/1965 ) (Ảnh: Tư liệu) Người khẳng định ý nghĩa cao cả của ngày 27/7, Người nói: Bởi vì đó là “một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái, là tỏ ý yêu mến thương binh”. Người kêu gọi đồng bào cả nước hãy thể hiện tình cảm thương yêu, trách nhiệm và bổn phận của mình bằng những việc làm thiết thực nhất: “Trong lúc chống nạn đói kém, đồng bào ta đã từng mỗi tuần nhịn ăn một bữa để giúp các đồng bào bị đói. Bây giờ chống nạn ngoại xâm, tôi chắc đồng bào ta sẽ vui lòng vài ba tháng nhịn ăn một bữa để giúp đỡ chiến sĩ bị thương. Tôi xin xung phong gửi một chiếc áo lót lụa của chị em phụ nữ đã biếu tôi, một tháng lương của tôi, một bữa ăn của tôi, và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng”. Chính vì thế, để bày tỏ tình cảm thắm thiết, lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân đối với những người bị thương tật vì đã không tiếc máu xương, cống hiến hết mình cho Tổ quốc, năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị các ban, ngành, đoàn thể Trung ương đang họp ở Đại Từ, Thái Nguyên, lấy ngày 27/7/1947 làm "Ngày Thương binh toàn quốc", đến năm 1955, "Ngày Thương binh toàn quốc" được đổi tên thành "Ngày Thương binh - Liệt sĩ". Trước lúc đi xa, Người vẫn không quên để lại những lời căn dặn trong Bản Di chúc lịch sử cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta: “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc đầu tiên đối với con người là chăm lo cho thương binh và những người có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình, Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ ở mỗi địa phương, cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh, liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ cho họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”. Thực hiện lời răn dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, trải qua 74 năm (27/7/1947 - 27/7/2021), các chính sách chăm lo người có công, Mẹ Việt Nam anh hùng, thân nhân liệt sĩ, thương bệnh binh đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Theo thống kê, hiện cả nước có khoảng 1,4 triệu người có công và thân nhân đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng, đời sống của người có công không ngừng được nâng lên. Nhìn chung, chế độ ưu đãi người có công đã được xây dựng và thực hiện tương đối toàn diện và bao phủ, ngoài trợ cấp còn có chế độ chăm sóc sức khỏe, cải thiện nhà ở, ưu đãi trong y tế, giáo dục đào tạo, sản xuất kinh doanh, tạo việc làm,… Đến nay, Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7 đã trở thành ngày toàn dân tưởng nhớ, tri ân những Anh hùng liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc Việt Nam và luôn biết ơn sâu sắc đến các Bà mẹ Việt Nam anh hùng đã sinh ra những người con trung hiếu, anh dũng để đất nước được nở hoa độc lập. Hồng Thiết

Tiếp tục triển khai xét khen thưởng thành tích kháng chiến, làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, Lào và tuyến 1 biên giới phía Bắc, hải đảo xa

TĐKT - Ngày 21/7, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam ban hành Công văn số 1265/CT-TH về việc tiếp tục giải quyết khen thưởng thành tích kháng chiến, làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, Lào và tuyến 1 biên giới phía Bắc, hải đảo xa. Đối tượng, tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục, hồ sơ thực hiện theo Hướng dẫn số 124/HD-CT ngày 22/01/2015 của Tổng cục Chính trị; đồng thời thực hiện một số nội dung sau: 1. Cơ quan chức năng các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương và các cơ quan, đơn vị tổ chức tuyên truyền, phổ biến, triển khai xét, đề nghị khen thưởng đúng đối tượng, đủ tiêu chuẩn, đúng quy trình, thủ tục hồ sơ, thời gian theo quy định, không để sót đối tượng. 2. Chỉ xem xét, đề nghị khen thưởng đối với những trường hợp chưa được khen thưởng. Các trường hợp đề nghị khen thưởng phải có bản khai thành tích kèm theo bản sao (có chứng thực của cơ quan có thẩm quyền) các loại giấy tờ như Lý lịch cán bộ, quân nhân, công nhân viên, đảng viên; Quyết định: Nghỉ hưu, phục viên, xuất ngũ, chuyển ngành; sổ bảo hiểm xã hội… để chứng minh có đủ điều kiện, tiêu chuẩn khen thưởng. Các giấy tờ xác nhận không có giá trị để làm căn cứ xét khen thưởng. 3. Hồ sơ khen thưởng (4 bộ) lập riêng từng loại hình thành tích (kháng chiến; ở Campuchia; ở Lào; biên giới phía Bắc; hải đảo xa). 4. Hoàn thành việc giải quyết khen thưởng trước ngày 31/12/2023. Riêng việc xét khen thưởng Huân chương, Huy chương Chiến thắng hoàn thành trước ngày 31/12/2021 để bảo đảm việc tổng kết khen thưởng kháng chiến. * Thời gian tiếp nhận hồ sơ (qua Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị): - Năm 2021: Từ ngày 01/12 đến ngày 31/12. - Năm 2022 và 2023 (mỗi năm 02 đợt, không tiếp nhận hồ sơ đề nghị khen thưởng Huân chương, Huy chương Chiến thắng). + Đợt 1: Từ ngày 01/3 đến ngày 30/3. + Đợt 2: Từ ngày 01/11 đến ngày 30/11. 5. Thực hiện quy định hiện hành, các trường hợp được khen thưởng thành tích kháng chiến, làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, Lào và tuyến 1 biên giới phía Bắc, hải đảo xa, không có tiền thưởng kèm theo. Trang Lê

Đề xuất luật hóa “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang”

Sáng 22/6, tại Hà Nội, dưới sự chủ trì của Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề Xã hội Nguyễn Thúy Anh, Thường trực Ủy ban về các vấn đề Xã hội đã cho ý kiến về việc thực hiện Điều 101 Luật Thi đua, khen thưởng và khen thưởng đối với thanh niên xung phong. Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội Nguyễn Thúy Anh phát biểu Trưởng Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương Phạm Huy Giang cho biết, ngày 25/10/2016, Hội Cựu Thanh niên xung phong Việt Nam có Tờ trình số 319/TTr-HCTNXPVN trình Ban Bí thư Trung ương Đảng đề nghị Đảng, Nhà nước có hình thức khen thưởng huy chương tặng riêng thanh niên xung phong có thời gian phục vụ tại ngũ trong thời kỳ kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày 7/2/2017, Văn phòng Trung ương Đảng có văn bản số 3257-CV/VPTW thông báo kết luận của Ban Bí thư: “Đồng ý chủ trương tặng thưởng Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang cho thanh niên xung phong hoàn thành nhiệm vụ các thời kỳ kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; đồng thời “Đề nghị Ban cán sự đảng Chính phủ khẩn trương chỉ đạo Chính phủ nghiên cứu, đề xuất Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Thi đua, khen thưởng cho phù hợp tình hình mới, trong đó có nội dung khen thưởng huy chương cho thanh niên xung phong nói trên”. Trên cơ sở đó, Bộ Nội vụ đã lập hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi), trong đó có nội dung về việc tặng thưởng “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” để xin ý kiến các cơ quan chức năng theo quy định. Tại Phiên họp thường kỳ tháng 4/2021, Chính phủ đã thống nhất bổ sung hình thức “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” vào dự án Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi) để tặng thưởng Thanh niên xung phong hoàn thành nhiệm vụ các thời kỳ kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trưởng Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Phó Trưởng Ban soạn thảo dự án Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi) Phạm Huy Giang trình bày báo cáo Báo cáo tại phiên họp, đại diện Hội cựu Thanh niên xung phong Việt Nam cho biết, trong các thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ biên giới, làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào và Campuchia, khắc phục hậu quả chiến tranh xây dựng kinh tế sau 1975, thanh niên xung phong là lực lượng có tính chất đặc thù, được huy động làm nhiệm vụ ở những địa bàn trọng điểm, chiến sự diễn ra rất ác liệt, nơi gian khổ, khó khăn để bảo đảm mạch máu giao thông, phục vụ chiến đấu, tham gia chiến đấu và khắc phục hậu quả chiến tranh. Thời gian phục vụ tại ngũ của thanh niên xung phong từ 3 đến 5 năm, 7 năm, 10 năm nhưng đều vào các thời kỳ có chiến sự ác liệt. Lực lượng thanh niên xung phong có 670 nghìn người, trong đó, 46 nghìn người bị thương (đã được xác nhận thương binh 33,7 nghìn người ), trên 10 nghìn người hy sinh (đã được xác nhận liệt sĩ 4.952 người), 13 nghìn người và 4,6 nghìn người con đẻ bị nhiễm chất độc hóa học (đã được giải quyết chế độ 2.309 người và 1.636 cháu), sau kết thúc chiến tranh có 5,6 nghìn nữ thanh niên xung phong không xây dựng được gia đình, sống cô đơn. Toàn cảnh cuộc họp Đại diện Hội Cựu Thanh niên xung phong Việt Nam thống nhất đề xuất bổ sung quy định về “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” tại điểm d, khoản 2 Điều 52 của Luật Thi đua, khen thưởng. Cùng với đó, đề nghị bổ sung: "Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân là thanh niên xung phong hoàn thành nhiệm vụ trong các thời kỳ kháng chiến, trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế; có thời gian tại ngũ từ 2 năm trở lên”. Việc này nhằm khen thưởng đúng với thanh niên xung phong làm nhiệm vụ ở các chiến trường, các thời kỳ. Riêng tại chiến trường Lào, Campuchia có trên 5.100 thanh niên xung phong tham gia và một số đã được Nhà nước Lào, Campuchia tặng thưởng huân, huy chương. Tại cuộc họp, Thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội nhấn mạnh, với những thành tích của thanh niên xung phong qua các thời kỳ cần có sự tôn vinh tương xứng. Do đó, việc bổ sung quy định về "Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang" vào dự án Luật Thi đua, khen thưởng là cần thiết. Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề Xã hội Nguyễn Thúy Anh đề nghị Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương tiếp thu các ý kiến của đại biểu tại phiên họp và thể hiện rõ hơn nội dung về thi đua, khen thưởng đối với thanh niên xung phong trong dự án Luật. Lực lượng Thanh niên xung phong đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Thành đồng Tổ quốc, danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tặng bức trướng “Thanh niên xung phong chiến đấu dũng cảm, lao động sáng tạo lập công xuất sắc”; 43 tập thể và 40 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng (chủ yếu là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân). Đối với cá nhân, có 82 nghìn thanh niên xung phong sau khi xuất ngũ được chuyển ngành, chuyển đi học được cộng dồn thời gian công tác sau đó để tặng thưởng Huân chương, Huy chương kháng chiến. Theo Báo điện tử Đại biểu nhân dân

Trang