Diễn đàn

Đề xuất luật hóa “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang”

Sáng 22/6, tại Hà Nội, dưới sự chủ trì của Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề Xã hội Nguyễn Thúy Anh, Thường trực Ủy ban về các vấn đề Xã hội đã cho ý kiến về việc thực hiện Điều 101 Luật Thi đua, khen thưởng và khen thưởng đối với thanh niên xung phong. Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội Nguyễn Thúy Anh phát biểu Trưởng Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương Phạm Huy Giang cho biết, ngày 25/10/2016, Hội Cựu Thanh niên xung phong Việt Nam có Tờ trình số 319/TTr-HCTNXPVN trình Ban Bí thư Trung ương Đảng đề nghị Đảng, Nhà nước có hình thức khen thưởng huy chương tặng riêng thanh niên xung phong có thời gian phục vụ tại ngũ trong thời kỳ kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày 7/2/2017, Văn phòng Trung ương Đảng có văn bản số 3257-CV/VPTW thông báo kết luận của Ban Bí thư: “Đồng ý chủ trương tặng thưởng Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang cho thanh niên xung phong hoàn thành nhiệm vụ các thời kỳ kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; đồng thời “Đề nghị Ban cán sự đảng Chính phủ khẩn trương chỉ đạo Chính phủ nghiên cứu, đề xuất Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Thi đua, khen thưởng cho phù hợp tình hình mới, trong đó có nội dung khen thưởng huy chương cho thanh niên xung phong nói trên”. Trên cơ sở đó, Bộ Nội vụ đã lập hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi), trong đó có nội dung về việc tặng thưởng “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” để xin ý kiến các cơ quan chức năng theo quy định. Tại Phiên họp thường kỳ tháng 4/2021, Chính phủ đã thống nhất bổ sung hình thức “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” vào dự án Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi) để tặng thưởng Thanh niên xung phong hoàn thành nhiệm vụ các thời kỳ kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trưởng Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Phó Trưởng Ban soạn thảo dự án Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi) Phạm Huy Giang trình bày báo cáo Báo cáo tại phiên họp, đại diện Hội cựu Thanh niên xung phong Việt Nam cho biết, trong các thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ biên giới, làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào và Campuchia, khắc phục hậu quả chiến tranh xây dựng kinh tế sau 1975, thanh niên xung phong là lực lượng có tính chất đặc thù, được huy động làm nhiệm vụ ở những địa bàn trọng điểm, chiến sự diễn ra rất ác liệt, nơi gian khổ, khó khăn để bảo đảm mạch máu giao thông, phục vụ chiến đấu, tham gia chiến đấu và khắc phục hậu quả chiến tranh. Thời gian phục vụ tại ngũ của thanh niên xung phong từ 3 đến 5 năm, 7 năm, 10 năm nhưng đều vào các thời kỳ có chiến sự ác liệt. Lực lượng thanh niên xung phong có 670 nghìn người, trong đó, 46 nghìn người bị thương (đã được xác nhận thương binh 33,7 nghìn người ), trên 10 nghìn người hy sinh (đã được xác nhận liệt sĩ 4.952 người), 13 nghìn người và 4,6 nghìn người con đẻ bị nhiễm chất độc hóa học (đã được giải quyết chế độ 2.309 người và 1.636 cháu), sau kết thúc chiến tranh có 5,6 nghìn nữ thanh niên xung phong không xây dựng được gia đình, sống cô đơn. Toàn cảnh cuộc họp Đại diện Hội Cựu Thanh niên xung phong Việt Nam thống nhất đề xuất bổ sung quy định về “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” tại điểm d, khoản 2 Điều 52 của Luật Thi đua, khen thưởng. Cùng với đó, đề nghị bổ sung: "Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân là thanh niên xung phong hoàn thành nhiệm vụ trong các thời kỳ kháng chiến, trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế; có thời gian tại ngũ từ 2 năm trở lên”. Việc này nhằm khen thưởng đúng với thanh niên xung phong làm nhiệm vụ ở các chiến trường, các thời kỳ. Riêng tại chiến trường Lào, Campuchia có trên 5.100 thanh niên xung phong tham gia và một số đã được Nhà nước Lào, Campuchia tặng thưởng huân, huy chương. Tại cuộc họp, Thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội nhấn mạnh, với những thành tích của thanh niên xung phong qua các thời kỳ cần có sự tôn vinh tương xứng. Do đó, việc bổ sung quy định về "Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang" vào dự án Luật Thi đua, khen thưởng là cần thiết. Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề Xã hội Nguyễn Thúy Anh đề nghị Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương tiếp thu các ý kiến của đại biểu tại phiên họp và thể hiện rõ hơn nội dung về thi đua, khen thưởng đối với thanh niên xung phong trong dự án Luật. Lực lượng Thanh niên xung phong đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Thành đồng Tổ quốc, danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tặng bức trướng “Thanh niên xung phong chiến đấu dũng cảm, lao động sáng tạo lập công xuất sắc”; 43 tập thể và 40 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng (chủ yếu là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân). Đối với cá nhân, có 82 nghìn thanh niên xung phong sau khi xuất ngũ được chuyển ngành, chuyển đi học được cộng dồn thời gian công tác sau đó để tặng thưởng Huân chương, Huy chương kháng chiến. Theo Báo điện tử Đại biểu nhân dân

Cần quy định khung tiêu chuẩn, tiêu chí khen thưởng đại biểu Quốc hội chuyên trách

Sáng 17/6, tại Hà Nội, dưới sự chủ trì của Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề Xã hội Nguyễn Thúy Anh, Thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội đã cho ý kiến về việc thực hiện công tác thi đua, khen thưởng đối với đại biểu Quốc hội chuyên trách. Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội Nguyễn Thúy Anh phát biểu Báo cáo về việc thực hiện công tác thi đua, khen thưởng đối với đại biểu Quốc hội chuyên trách, Trưởng Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Phó Trưởng Ban soạn thảo dự án Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi) Phạm Huy Giang cho biết, sau khi Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 91/2017/NĐ - CP ngày 31/7/2017, trong đó quy định “Cấp nào quản lý về tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và quỹ lương thì cấp đó có trách nhiệm khen thưởng hoặc trình cấp trên khen thưởng đối với các đối tượng thuộc phạm vi quản lý”. Như vậy, đại biểu Quốc hội chuyên trách ở trung ương, cán bộ thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội quản lý, cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ do Văn phòng Quốc hội chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổng hợp, hoàn thiện hồ sơ, trình Thủ tướng Chính phủ theo quy định. Trưởng Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Phó Trưởng Ban soạn thảo dự án Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi) Phạm Huy Giang trình bày báo cáo Thời gian qua, công tác thi đua, khen thưởng đối với đại biểu Quốc hội chuyên trách ở trung ương và địa phương còn rất hạn chế và chưa tương xứng với những đóng góp công sức, trí tuệ của đại biểu Quốc hội chuyên trách trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với vai trò, vị trí, trách nhiệm là người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước trong Quốc hội. Qua theo dõi và các số liệu đều thấy rõ, việc bình xét, đề nghị các danh hiệu thi đua Lao động tiên tiến, Chiến sĩ thi đua cơ sở, Chiến sĩ thi đua cấp bộ, Chiến sĩ thi đua toàn quốc đối với đại biểu Quốc hội chuyên trách ở trung ương và địa phương hầu như không thực hiện được mà chủ yếu là các hình thức khen thưởng đột xuất, khen thưởng chuyên đề, khen thưởng đối ngoại, khen thưởng cống hiến đối với đại biểu Quốc hội chuyên trách ở trung ương và địa phương khi có thông báo nghỉ hưu. Phó Trưởng ban Công tác đại biểu Nguyễn Tuấn Anh trình bày báo cáo Phó Trưởng ban Công tác đại biểu Nguyễn Tuấn Anh nêu rõ, do đặc thù hoạt động của các cơ quan Quốc hội, trong nhiều nhiệm kỳ Quốc hội không thực hiện việc xem xét khen thưởng đối với các đại biểu Quốc hội chuyên trách. Nhằm bảo đảm công bằng trong công tác cán bộ, năm 2019 và năm 2020, Ban Công tác đại biểu đã phối hợp với Văn phòng Quốc hội tham mưu đề xuất, báo cáo Đảng đoàn Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về chủ trương trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, khen thưởng đối với các đại biểu Quốc hội chuyên trách ở trung ương và cán bộ thuộc diện Ủy ban Thường vụ Quốc hội quản lý có thời gian giữ chức vụ từ 5 năm trở lên. Theo đó, năm 2020 đã có 56 đồng chí được xét khen thưởng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Huân chương của Chủ tịch nước do có thành tích xuất sắc trong quá trình công tác. Tuy nhiên, ông Nguyễn Tuấn Anh cũng cho biết, hiện vẫn chưa có quy định về tiêu chuẩn, tiêu chí của các hình thức khen thưởng phù hợp với tính chất đặc thù hoạt động của đại biểu Quốc hội chuyên trách và các cơ quan trong khối Quốc hội. Đặc biệt, hàng năm, Quốc hội không tổ chức các phong trào thi đua nên không có cơ sở để xét khen thưởng và không có cơ sở nào để xác định thành tích của đại biểu. Toàn cảnh cuộc họp Tại cuộc họp, Thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội nhấn mạnh, khi xây dựng sửa đổi, bổ sung Luật Thi đua, khen thưởng cần nghiên cứu quy định khung tiêu chuẩn, tiêu chí khen thưởng phù hợp với đối tượng là đại biểu Quốc hội chuyên trách trên cơ sở xuất phát từ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội chuyên trách, đặc biệt là đại biểu chuyên trách ở trung ương để đề xuất hình thức khen thưởng phù hợp với các quy định của pháp luật. Một số ý kiến cũng cho rằng, cần xem xét thẩm quyền đề nghị khen thưởng và không tổ chức thi đua mà chỉ xét khen thưởng hàng năm hoặc theo nhiệm kỳ; cơ quan giúp việc về chế độ, chính sách đối với đại biểu Quốc hội tham mưu trình Đảng đoàn Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. Kết luận phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề Xã hội Nguyễn Thúy Anh đề nghị Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương tiếp thu các ý kiến của đại biểu, thể hiện rõ hơn nội dung về thi đua, khen thưởng đối với đại biểu Quốc hội chuyên trách. Dự án Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi) dự kiến sẽ được trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ Hai, Quốc hội khóa XV. Theo Báo điện tử Đại biểu nhân dân

Sâu sắc, cụ thể hơn trong học tập và làm theo tấm gương Hồ Chí Minh

TĐKT - Tại Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” diễn ra sáng nay 12/6, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những đánh giá và chỉ đạo quan trọng, nhằm tiếp tục được đẩy mạnh việc học tập và làm theo gương Bác Hồ ngày càng đi vào chiều sâu, ngày càng thiết thực và hiệu quả, tích cực góp phần vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước. Hiệu quả, sức lan tỏa mạnh mẽ từ phong trào học theo Bác Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” (điểm cầu Trung ương) Tổng Bí thư ghi nhận: Trong thời gian qua, việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã được Đảng ta nêu ra và chỉ đạo từ rất sớm, bằng nhiều chỉ thị, nghị quyết, qua nhiều thời kỳ. Gần đây nhất là Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị khóa XII "về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ, đã đạt được nhiều kết quả rất quan trọng, khá toàn diện, với nhiều cách làm mới, sáng tạo, thiết thực, tạo chuyển biến mạnh mẽ, tích cực, có sức lan toả sâu rộng trong toàn Đảng và toàn xã hội, được Đại hội XII của Đảng đánh giá cao. Nổi bật là: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện một cách nghiêm túc, bài bản, chất lượng. Việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, gắn với trách nhiệm nêu gương có chuyển biến tích cực. Các cấp ủy, cán bộ, đảng viên, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, nhất là các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương đã thực hiện nêu gương bằng những việc làm, hành động cụ thể, với phương châm "trên trước, dưới sau", "trong trước, ngoài sau", "học tập đi đôi với làm theo". Công tác tuyên truyền với nhiều cách làm sáng tạo, có sức tác động, lan tỏa mạnh mẽ đến nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên, nhân dân, làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh từng bước trở thành nền tảng tinh thần của xã hội. Công tác kiểm tra, giám sát được chú trọng, có tính giáo dục, răn đe cao, phòng ngừa các sai phạm… Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” (điểm cầu Trung ương) “Những kết quả quan trọng trong 5 năm thực hiện đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đã góp phần đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các tổ chức, cơ quan, đơn vị; xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trách nhiệm và động cơ đúng đắn, tiên phong, gương mẫu, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần tạo ra những đột phá trong việc phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước.” - Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định. Từ trong phong trào học tập và làm theo Bác, đã xuất hiện nhiều tấm gương tập thể, cá nhân tiên tiến, điển hình, thực sự có sức lan tỏa trong xã hội, khơi dậy tình cảm, động lực, tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc và mong muốn cống hiến, phụng sự đất nước trong mọi tầng lớp xã hội, cổ vũ toàn thể nhân dân ta kiên định, hăng hái, phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tại Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã biểu dương những kết quả đạt được của toàn Đảng ta trong 5 năm qua; biểu dương những tập thể, cá nhân đã có những cách làm sáng tạo, đạt được những hiệu quả thiết thực trong cuộc sống. “Mỗi tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến đó là những bông hoa đẹp", đang từng ngày vun góp, tạo ra "rừng hoa đẹp" cho đất nước. Đảng và Nhà nước trân trọng, ghi nhận và mong các đồng chí tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, nêu gương sáng, dẫn dắt, nhân rộng để mọi người noi theo, cùng tiến bộ” – Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh. Cụ thể các nhiệm vụ học tập, làm theo và nêu gương Bác Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Cuộc đời và sự nghiệp của Người đã trở thành biểu tượng cách mạng, khơi dậy khát vọng và niềm tin cho nhân dân Việt Nam và nhân dân tiến bộ thế giới trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là việc làm cần thiết, là nhiệm vụ hết sức quan trọng, thường xuyên, không thể thiếu đối với toàn Đảng, toàn dân ta, trước hết là các tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước và cán bộ, đảng viên trong tu dưỡng, rèn luyện, cống hiến, phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân. Đồng chí Phạm Thị Thanh Trà, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ chủ trì Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”  tại điểm cầu Trụ sở Bộ Nội vụ. (ảnh theo TCTCNN) Phân tích rõ bối cảnh, tình hình đất nước sau 35 năm đổi mới và nêu rõ các tác động mạnh, nhiều chiều đến đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng: Tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức Hồ Chí Minh, phong cách Hồ Chí Minh là những nội dung cốt lõi trong Chỉ thị số 05-CT/TW và yêu cầu các cấp, các ngành bám sát để triển khai học tập và thực hiện trong giai đoạn mới. Tổng Bí thư chỉ rõ, học tập Bác là học tư tưởng, thế giới quan và nhân sinh quan cách mạng, đạo đức cách mạng và phong cách của người chiến sĩ cộng sản chân chính. Thúc đẩy việc học tập Bác trở thành lối sống, nếp nghĩ, cách làm của từng cán bộ, đảng viên và người dân. Làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh thực sự thấm sâu vào đời sống xã hội, thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, cội nguồn sức mạnh to lớn, để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phát huy nội lực, vượt qua khó khăn, thách thức, hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thực sự thấm nhuần tư tưởng của Bác, thống nhất giữa tư tưởng và hành động, giữa lời nói và việc làm. Ai cũng tìm thấy ở đó những chuẩn mực đạo đức cần học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trở thành nhu cầu, lẽ sống tự nhiên, mong muốn vươn lên, hoàn thiện chính bản thân mình: Bản lĩnh, kiên định, tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; gần dân, tin dân, yêu dân, học dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Qua đó, bồi đắp tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, làm cho đất nước ngày càng phát triển, dân tộc ngày càng cường thịnh, trường tồn. Làm theo Bác: Là thúc đẩy, tạo chuyển biến mạnh mẽ từ "học tập" sang "làm theo", hiện thực hóa bằng những chương trình hành động cụ thể, việc làm cụ thể, thiết thực trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với đề cao chức trách, đạo đức công vụ của mỗi cán bộ, đảng viên; giải quyết hiệu quả các khâu đột phá và các vấn đề trọng tâm, bức xúc trong thực tiễn, trên nền tảng, kim chỉ nam là tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin trong mọi hành động. Quang cảnh Hội nghị tại điểm cầu Trụ sở Bộ Nội vụ (ảnh theo TCTCNN) Đặc biệt, Tổng Bí thư yêu cầu: Mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiêm túc thực hiện trách nhiệm nêu gương; người có chức vụ càng cao, cương vị càng lớn càng phải gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác để quần chúng, nhân dân noi theo; phải thể hiện được tư tưởng vững vàng, quan điểm đúng đắn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hết lòng vì nước, vì dân; có phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, thật sự là hạt nhân đoàn kết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể, theo tinh thần Bác đã dạy: "Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền". Tổng Bí thư khẳng định: Với đội ngũ cán bộ, đảng viên đã được tôi luyện và trưởng thành, Đảng ta sẽ ngày càng tăng cường được sức mạnh, sức chiến đấu và sự trong sáng, xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy, kỳ vọng của nhân dân, "xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân", sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp đưa Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu. Mai Thảo

Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương chủ trì họp Thường trực Hội đồng TĐKT Trung ương

Chiều 11/6, tại Hà Nội, Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân, Phó Chủ tịch Thứ nhất Hội đồng Thi đua - Khen thưởng (TĐKT) Trung ương đã chủ trì cuộc họp Thường trực Hội đồng TĐKT Trung ương. Cùng dự có Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng TĐKT Trung ương - Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà; Phó Chủ tịch Hội đồng - Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Nguyễn Đình Khang. Toàn cảnh cuộc họp. Ảnh Vân Anh/VPCTN Tại cuộc họp, Thường trực Hội đồng TĐKT Trung ương đã báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện nhiệm vụ 5 tháng đầu năm và một số nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm của Thường trực Hội đồng. Theo đó, 5 tháng đầu năm nay, Thường trực Hội đồng đã tập trung chỉ đạo, hoàn thành các nhiệm vụ đề ra. Tập trung đôn đốc, hướng dẫn các Bộ, ngành, MTTQ, đoàn thể, địa phương tổ chức các phong trào thi đua thiết thực, gắn với nhiệm vụ chính trị được giao. Đặc biệt, các phong trào thi đua gắn với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, thi đua trong phòng chống dịch bệnh. Công tác khen thưởng đảm bảo chính xác, kịp thời phục vụ nhiệm vụ chính trị và tôn vinh các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc năm 2020.... Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân phát biểu tại cuộc họp. Ảnh Vân Anh/VPCTN Phát biểu tại cuộc họp, Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân nhấn mạnh, từ đầu năm đến nay, phong trào thi đua yêu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước có nhiều sự kiện chính trị, xã hội sôi động như cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội HĐND các cấp, cả nước chung tay phòng chống dịch Covid-19… Do đó, phong trào thi đua đã tạo được sức lan tỏa mạnh mẽ trong các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, theo Phó Chủ tịch nước, để nâng cao hiệu quả công tác TĐKT hơn nữa, trong thời gian tới, công tác TĐKT cần tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức khen thưởng, công tác phối hợp với các ban, ngành liên quan cho phù hợp với tình hình mới. Các phòng trào thi đua cần được thực hiện theo hướng thực chất, hiệu quả hơn nữa. Đặc biệt, có hình thức khen thưởng kịp thời nhằm động viên, khích lệ, biểu dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến như khen thưởng các tập thể, cá nhân điển hình trong cuộc bầu cử, trong phong trào cả nước chung tay phòng chống dịch Covid-19… Cùng với đó, Thường trực Hội đồng TĐKT Trung ương tiếp tục tham mưu hoàn thiện thể chế để tăng cường công tác quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng: Tiếp thu ý kiến, hoàn thiện trình Quốc hội Dự án Luật TĐKT (sửa đổi). Đồng thời, tham gia góp ý xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về công tác thi đua khen thưởng của các Bộ, ngành, địa phương.; chỉ đạo, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương tổ chức các phong trào thi đua yêu nước… Tại cuộc họp, Thường trực Hội đồng TĐKT Trung ương đã thảo luận và cho ý kiến về một số nội dung quan trọng khác của công tác TĐKT. Theo VPCTN  

Tỏa sáng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, khơi dậy và thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Nhân dịp sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có bài viết với tiêu đề “Tỏa sáng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, khơi dậy và thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết quan trọng của Chủ tịch nước.   Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc ta, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người chiến sĩ cộng sản quốc tế mẫu mực, đã hiến dâng trọn đời vì nước, vì dân. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là tài sản vô giá của Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta; là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp giải phóng dân tộc thắng lợi, tiếp tục soi sáng công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nhân dịp sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và triển khai thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, về tiếp tục thực hiện Chỉ thị quan trọng này, đồng thời kỷ niệm 110 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5-6-1911 - 5-6-2021) và 80 năm Ngày Người trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam (28-1-1941 - 28-1-2021), tôi xin trình bày một số suy nghĩ sau đây:  1- Khát vọng độc lập dân tộc và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là mạch nguồn xuyên suốt cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh. Khát vọng đó đã thôi thúc Người quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, hòa mình với cuộc sống của giai cấp cần lao khắp các nước chính quốc và thuộc địa, vừa lao động, vừa nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Hướng đi sang phương Tây tìm đường cứu nước đã mở ra tầm nhìn rộng lớn, đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mở lối cho dân tộc bắt nhịp vào trào lưu chung của thời đại, khắc phục tình trạng biệt lập của cách mạng Việt Nam. Tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn, Người đã dấn thân vào cuộc đấu tranh cách mạng đầy vinh quang và oanh liệt, chấp nhận mọi gian khổ hy sinh để hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng với ý chí mạnh mẽ, khát vọng cháy bỏng, nghị lực phi thường. Giản dị, mộc mạc, nhưng đầy khí phách, Người nói lên tiếng lòng bằng tất cả sự thôi thúc lương tâm: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(1). Khát vọng “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” của Người được chế định thành tiêu ngữ của mọi văn bản nhà nước gắn với quốc hiệu từ “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” đến “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Khát vọng ấy vang lên chính là lời hịch non sông, thể hiện ý chí, quyết tâm sắt đá của Người trước vận mệnh dân tộc, tương lai đất nước, chiều hướng lịch sử. Đó là tinh thần “dù đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập” trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp. Đó là chân lý bất hủ “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” thôi thúc toàn thể quốc dân, đồng bào đứng lên bảo vệ lương tri và phẩm giá, giành quyền sống và mưu cầu hạnh phúc; truyền cảm hứng cho các dân tộc bị áp bức, bạn bè khắp năm châu về một dân tộc Việt Nam văn hiến và anh hùng. Khát vọng đó của Người đã trở thành “Khát vọng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh”. Di sản tư tưởng của Người tiếp tục soi đường, chỉ lối cho sự nghiệp đổi mới hôm nay; thắp sáng niềm tin về tiền đồ, tương lai tươi sáng của dân tộc; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc để làm nên một kỳ tích Việt Nam trong thế kỷ XXI. Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu đến năm 2045 - kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam)  - nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ đồ, uy tín, vị thế, tiềm lực đất nước được tạo dựng trong thời đại Hồ Chí Minh, trong đó có thành tựu 35 năm đổi mới, đã và đang tạo nền tảng vững chắc cho chúng ta vững tin tiến lên phía trước. Đích đến trở thành nước phát triển vẫn là hành trình dài phía trước, cần đến cả khát vọng vươn lên và bản lĩnh, ý chí, quyết tâm mạnh mẽ. Hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện, đồng bộ; khơi dậy ý chí, sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam. Bước vào thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, tình hình thế giới biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường, cạnh tranh giữa các nước về tốc độ và chất lượng phát triển ngày càng gay gắt, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động sâu sắc, cơ chế vẫn còn nhiều nút thắt, điểm nghẽn cần phải được tháo gỡ, đột phá để tạo khả năng phát triển bứt phá. Mỗi nhịp bước chúng ta đi trên con đường về đích, bản lĩnh, ý chí, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục rọi sáng, truyền cảm hứng, làm cho mỗi con người Việt Nam vững tin hơn sức mạnh của chính mình để thực hiện thành công tâm nguyện của Người. 2- Chủ tịch Hồ Chí Minh - biểu tượng tận trung với nước, tận hiếu với dân, dành tình yêu thương vô hạn và niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của nhân dân. Ở đây không chỉ kế thừa tư tưởng truyền thống “đẩy thuyền là dân, mà lật thuyền cũng là dân”, “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” của ông cha ta, mà còn nâng tầm chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Chính lòng yêu thương đồng bào bị đọa đày đau khổ đã đưa Người đến với lý tưởng chủ nghĩa cộng sản, tìm thấy ở đó con đường giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Quyết định chính trị của Người luôn đúng đắn, sáng suốt, bởi bao giờ cũng lấy điểm tựa xuất phát là lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, đúng quy luật, thuận lòng dân, hợp xu thế thời đại, thấm đẫm chủ nghĩa nhân văn. Người căn dặn: “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý”(2); “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(3). Không như nhiều nhà tư tưởng nhìn người dân bằng lòng thương cảm, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho nhân dân bằng tình yêu thương bao la ở cả tầm cao tư tưởng và chiều sâu nội tâm. Người xem “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân” và niềm tin mãnh liệt “Trong thế giới, không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Với tinh thần “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, Người và Đảng ta đã khơi dậy sức mạnh vĩ đại của nhân dân thông qua giáo dục, giác ngộ, làm mọi người vững tin vào năng lực của chính mình, dũng cảm đứng lên giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ và đói nghèo, lạc hậu. Tự xác định cho mình bổn phận, trách nhiệm “như người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận”, Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Người quan niệm, nếu để dân đói, dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; giành được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì độc lập, tự do cũng không có nghĩa lý gì, dân chỉ hiểu rõ giá trị của tự do, của độc lập khi được ăn no, mặc ấm. Tình yêu thương bao la của Người dành cho mọi người, mọi nhà, mọi giai cấp, tầng lớp xã hội, từ công nhân, nông dân, trí thức, phụ nữ, thanh niên, cụ già, em nhỏ, đồng bào dân tộc thiểu số đến người có công với nước. Đối với công nhân và nông dân, Người đề ra nguyên tắc không bao giờ được hy sinh lợi ích của họ cho bất cứ giai cấp nào khác, phải có chính sách chăm lo cụ thể, bởi đây là những giai cấp trực tiếp lao động sản xuất của cải vật chất cho xã hội, đóng góp nhiều công sức cho cách mạng, chịu nhiều ách áp bức của thực dân, phong kiến. Đối với người có công với nước, phải thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”; có chính sách đặc biệt báo đáp, chăm lo cho thương binh, gia đình liệt sỹ, thanh niên xung phong; xây dựng vườn hoa, bia tưởng niệm để ghi nhớ công lao các anh hùng liệt sỹ và giáo dục truyền thống yêu nước cho nhân dân. Đối với những người kém may mắn, chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội, Đảng và Chính phủ phải tạo cơ hội giúp họ phát huy tính tích cực, tự tin vào năng lực của chính mình, nỗ lực vươn lên và trở thành những người có ích cho xã hội. Như một lẽ tự nhiên, ở Hồ Chí Minh hòa quyện giữa yêu nước với thương dân, cứu nước với cứu dân, giải phóng dân tộc với đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Ngay sau khi tuyên bố độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (ngày 3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề xuất 6 nhiệm vụ cấp bách là chống “giặc đói”, chống “giặc dốt”, xóa bỏ các hủ tục, xóa bỏ các thứ thuế vô lý, tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Người trình bày nhiều lần quan niệm về chủ nghĩa xã hội rất dung dị, gần gũi, dễ hiểu, có sức hấp dẫn, lôi cuốn nhân dân; đó là một chế độ “làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ”(4); đó là một xã hội “ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, không làm thì không được hưởng”; chủ nghĩa xã hội là “dân giàu, nước mạnh”... Với 24 năm trên cương vị Chủ tịch nước, Người đã dành nhiều tâm lực, trí lực để lãnh đạo, chỉ đạo việc thể chế hóa các quan điểm nhân văn, vì con người khi xây dựng hiến pháp (Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959), các đạo luật, chính sách để thúc đẩy, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, chăm lo cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân; sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân; trách nhiệm của Đảng và Nhà nước là chăm lo cho con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Đại hội XIII của Đảng khẳng định con người là trung tâm của mọi chiến lược phát triển, tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, không ngừng chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xác định có vai trò rất quan trọng, bảo đảm thể chế hóa ý chí của nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiểm soát quyền lực nhà nước, phòng ngừa và khắc phục các nguy cơ tha hóa. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước phải hết sức quan tâm chăm lo cho mọi tầng lớp nhân dân; gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển, thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội; bảo đảm quyền phát triển công bằng cho mọi thành viên xã hội, không ai bị bỏ lại phía sau. Đó chính là những giải pháp thiết thực, cụ thể học tập và làm theo Bác về chăm lo cho nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân. 3- Triết lý phát triển mang giá trị vượt thời gian của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục định hướng cho phát triển bền vững, bao trùm, hài hòa. Dấu hiệu thường thấy ở các vĩ nhân là tiên phong khai mở những tư tưởng mang giá trị vượt thời gian, mà càng có độ lùi thời gian càng có điều kiện hiểu biết đầy đủ, sâu sắc hơn những giá trị đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh là trường hợp như thế gắn với triết lý phát triển bền vững, bao trùm, hài hòa. Vượt lên và vượt trước các mô thức “phát triển xấu”, từ giữa thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn/ Người đủ ăn thì khá giàu/ Người khá giàu thì giàu thêm”(5). Đó chính là triết lý phát triển không loại trừ, hay cùng phát triển, mà các chương trình nghị sự toàn cầu ngày nay mới chung tay hành động gắn với mục tiêu phát triển bền vững, bao trùm, hài hòa, như Chương trình Nghị sự 2030 của Liên hợp quốc (SDG-2030). Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào chống “giặc đói”, chống “giặc dốt”, thì phải đến cuối thế kỷ XX vấn đề “loại bỏ triệt để tình trạng bần cùng (nghèo cùng cực), thiếu ăn” và “hoàn thành giáo dục phổ cập tiểu học” mới được ghi vào Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Những năm 60 của thế kỷ trước, khi hầu hết các quốc gia vẫn cuốn theo lối phát triển dựa vào bòn rút cạn kiệt nguồn lợi tự nhiên, đẩy tới suy thoái môi trường, gây tổn hại đến khả năng phát triển của các thế hệ tương lai, thì Người đã phát động “Tết trồng cây” để bảo vệ môi trường. Phải nửa thế kỷ sau, nhân loại mới phản tỉnh về sự “đáp trả” của tự nhiên khi ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu đe dọa nghiêm trọng đến khả năng phát triển bền vững. Trong bối cảnh thế kỷ XX chứng kiến hai cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc, nhiều cuộc chiến tranh cục bộ, rồi “chiến tranh lạnh” chia cắt thế giới thành “hai phe”, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đấu tranh không mệt mỏi cho độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, hiện thân cho hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc. Ngay từ năm 1947, Người đã gửi thông điệp đến thế giới: Việt Nam muốn “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(6). Ngày nay, nguy cơ chiến tranh, xung đột cục bộ dù vẫn còn tiềm ẩn ở một số khu vực trên thế giới, nhưng khát vọng của Hồ Chí Minh về hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau đã và đang hiện hữu, trở thành phương châm xử thế của hầu hết các quốc gia - dân tộc. Được thẩm định bởi lịch sử, triết lý phát triển của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1945 đến nay trùng khớp với nhiều mục tiêu, nội dung trong các chương trình nghị sự toàn cầu của Liên hợp quốc về phát triển bền vững, bao trùm, nhất là xóa đói nghèo, chống thất học, bình đẳng giới, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Triết lý phát triển của Người đã và đang dẫn dắt dân tộc ta trên hành trình hướng đích trở thành quốc gia phát triển phồn vinh, hạnh phúc. Trong thời gian qua, những chương trình “Cả nước chung tay vì người nghèo”, “Nâng bước cho trẻ đến trường” hay sáng kiến “Trồng 1 tỷ cây xanh” trong 5 năm tới,... được rọi sáng từ triết lý phát triển của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nền kinh tế thị trường có vai trò phân bổ nguồn lực hiệu quả, nhưng tính tự phát của nó cũng gây nhiều hệ lụy cho phát triển, nhất là tình trạng chạy theo lợi nhuận mà hy sinh các lợi ích công cộng, gây nên phân hóa giàu nghèo, ô nhiễm môi trường, tiêu cực... Trong điều kiện đó, chúng ta phải triển khai thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển bền vững, dựa trên các trụ cột kinh tế - xã hội - môi trường; phát triển bao trùm, khi gắn kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm mọi người dân đều được thụ hưởng thành quả tăng trưởng, không ai bị bỏ lại phía sau. Những nội dung này tiếp tục được nhấn mạnh, làm sâu sắc hơn trong bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. 4- Chủ tịch Hồ Chí Minh - tấm gương đạo đức cách mạng ngời sáng, phong cách cao đẹp, thống nhất giữa tư tưởng và hành động, giữa lời nói và việc làm. Là một nhà tư tưởng lỗi lạc, nhà tổ chức thiên tài, nhà hoạt động thực tiễn đầy trải nghiệm, Người hiểu rằng xây dựng xã hội mới, con người mới là một cuộc cách mạng lâu dài, đầy khó khăn, gian khổ, vừa cải tạo các lề thói, tập tục lạc hậu, vừa phải kiến tạo cái mới, tiến bộ, văn minh, phải có người đi tiên phong “làm mực thước cho người ta bắt chước”. Phải qua hành động con người mới bộc lộ đầy đủ, chân thực các giá trị đạo đức theo đuổi và lấy đó làm phương châm xử thế cho mình. Vì thế, thực hành đạo đức là phương thức chuyển tải tư tưởng chân thực, hiệu quả và thuyết phục nhất cho người khác soi chiếu và làm theo, thể hiện tính thống nhất giữa tư tưởng và hành động, giữa lời nói và việc làm. Người nhấn mạnh, “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(7); “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến”, “quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức”(8). Đề ra chuẩn mực đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư” cho cán bộ, đảng viên thì bản thân Người tự mình thực hành làm gương. Hiện thân cho đức thanh liêm, nếp sống giản dị, thanh cao, lẽ sống cao đẹp, Người coi khinh sự xa hoa, bệnh hình thức, gây lãng phí thời gian, tiền bạc của nhân dân. Người từng nói, con người ta ai cũng thích ăn ngon, mặc đẹp, nhưng nếu ăn ngon, mặc đẹp mà làm phiền lòng người khác thì không nên. Nêu gương chí công, vô tư, Người tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, không màng danh lợi và phê phán các thói tư túng, lợi dụng việc công mưu việc riêng, gây nên tiêu cực trong bộ máy nhà nước. Để việc thực hành đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên trở thành nền nếp, Người đặt ra yêu cầu phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân - nguồn gốc làm hư hỏng, tha hóa con người - căn dặn mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn thật thà tự phê bình và phê bình, đấu tranh và gột rửa những thói hư, tật xấu ngay trong bản thân mình. Những phẩm chất cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời. Người cho rằng, đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống mà do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà củng cố, phát triển, như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Ngay từ thời dựng Đảng, trong tác phẩm “Đường Cách mệnh” (năm 1927), điều đầu tiên mà Người nhấn mạnh là “tư cách của người cách mệnh”, nhất là các phẩm chất như “vị công vong tư”, “không hiếu danh”, “không kiêu ngạo”, “nói thì phải làm”, “hy sinh”, “phải ít lòng ham muốn về vật chất”... Cả đời Người là minh chứng sống động, thuyết phục nhất của nếp sống giản dị, tiết kiệm, thanh cao, đồng cam cộng khổ với đồng bào, đồng chí.  Cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh cả về mặt tư tưởng, đạo đức và thực hành đạo đức có ý nghĩa cực kỳ to lớn cho xây dựng Đảng về đạo đức, xây dựng đạo đức công vụ và liêm chính tư pháp trong điều kiện hiện nay. Kế thừa, vận dụng và phát triển tư tưởng của Người, Đại hội XII của Đảng lần đầu tiên bổ sung nội dung xây dựng Đảng về đạo đức; Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh và đề ra những yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể cả tuyên truyền, giáo dục và thực hành đạo đức cách mạng trong công tác và trong đời sống hằng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên. Bằng cách đó, tư tưởng “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” của Người ngày càng thấm sâu vào toàn bộ tổ chức và hoạt động của Đảng và cả hệ thống chính trị, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, tăng cường gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. 5- Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong điều kiện mới phải được mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên xác định là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên. Qua 5 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW một cách quyết liệt, đồng bộ, bài bản đã mang lại khí thế mới, quyết tâm mới, động lực mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phẩm chất đạo đức, lối sống, phương pháp, tác phong công tác, ý thức chấp hành kỷ luật, pháp luật của đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên. Các nội dung tư tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh về kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng, tận trung với nước, tận hiếu với dân, yêu thương đồng bào, đồng chí; cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân,... đã được thấm nhuần, học tập và thực hành sâu rộng. Qua đó, thể hiện trách nhiệm chính trị, tình cảm sâu nặng đối với Bác Hồ kính yêu của toàn Đảng, toàn dân ta.   Phát huy những kết quả quan trọng đã đạt được 5 năm qua, trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tạo động lực để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cách mạng. Học tập và làm theo Bác để Đảng ta và mỗi đảng viên không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, năng lực, phẩm chất, uy tín; xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo trong giai đoạn mới. Phải thường xuyên bồi dưỡng, giáo dục lý tưởng, chuẩn mực đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh cho cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ. Chỉ khi nhận thức đầy đủ, sâu sắc giá trị tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thì việc học tập và làm theo Bác mới trở thành ý thức thường trực, trách nhiệm tự giác, tiến hành có nền nếp của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên và cả trong quần chúng nhân dân. Học tập và làm theo Bác đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực thực hiện thành công việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, do Đảng lãnh đạo. Yêu cầu đặt ra là xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển với hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định; xây dựng Chính phủ liêm chính, hành động, phục vụ nhân dân; xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, công khai, minh bạch; xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Trong giai đoạn tới, việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được coi là một nhiệm vụ trọng tâm trong đổi mới hệ thống chính trị, từ xây dựng pháp luật, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân,... đến xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ tâm, đủ tầm, đủ tài. Nhà nước phải thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng, ý chí của nhân dân; tạo môi trường thể chế luật pháp đầy đủ để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, phát huy quyền dân chủ của mọi tổ chức và công dân trong đời sống hằng ngày; đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật, không cho phép bất cứ ai đứng trên pháp luật. Toàn bộ các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân, của đất nước; kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu quả; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu và các biểu hiện nhũng nhiễu, tiêu cực. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng chế độ chức nghiệp thực tài, thúc đẩy liêm chính công vụ, nâng cao tinh thần, trách nhiệm phục vụ nhân dân, toàn tâm, toàn ý với công việc. Học tập và làm theo Bác phải gắn kết chặt chẽ với thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị; xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp; tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tập trung thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm, các khâu đột phá, tháo gỡ các nút thắt, điểm nghẽn gây bức xúc trong nhân dân. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, cổ vũ, động viên, nhân rộng gương người tốt, việc tốt, tạo ảnh hưởng lan tỏa sâu rộng trong xã hội. Đấu tranh kiên quyết với tình trạng quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, tiêu cực; xử lý nghiêm các vi phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước để tăng tính răn đe, bảo đảm việc tuân thủ pháp luật trở thành ý thức tự giác, tạo cơ sở cho nâng cao hiệu quả giáo dục và thực hành đạo đức cách mạng. Học tập và làm theo Bác là thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức, cơ quan, đơn vị. Nêu gương thể hiện ở vai trò tiên phong, sẵn sàng gánh vác mọi khó khăn, gian khổ, không lùi bước trước mọi hoàn cảnh, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, đấu tranh không khoan nhượng với các biểu hiện tránh việc mới, né việc khó, thờ ơ, vô cảm trước những bức xúc của nhân dân, trì trệ trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Nêu gương thực hành đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, nghiêm túc tự phê bình và phê bình, thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải cương quyết đấu tranh. Nêu gương về phong cách lãnh đạo dân chủ, khoa học, nói đi đôi với làm, toàn tâm, toàn ý với công việc; sâu sát thực tiễn, gần dân, trọng dân, hiểu dân, gắn bó với nhân dân; rèn luyện lối sống giản dị, tiết kiệm, chống xa hoa, lãng phí. Cần tổng kết những gương điển hình tiên tiến và tôn vinh, khen thưởng xứng đáng, để họ thật sự trở thành những tấm gương tiêu biểu cho người khác học tập, noi theo. *** Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta một di sản tư tưởng quý báu, một tấm gương đạo đức, phong cách cao đẹp và một thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên phải nêu cao ý thức, trách nhiệm tự giác trên cả ba nội dung: học Bác, làm theo Bác và nêu gương. Nghiêm túc học và làm theo Bác, mỗi cán bộ, đảng viên tự trang bị cho mình một phương thức tu dưỡng, rèn luyện thiết thực, hiệu quả để làm tròn vai trò, chức trách được giao, đáp ứng mong đợi của Đảng, Nhà nước và xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân./. ----------------------- (1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 187 (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 378 (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 65 (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 438 (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 81 (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 256 (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 284 (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 16

Đổi mới, sáng tạo góp phần cổ vũ mọi tổ chức, đơn vị, cá nhân tham gia thi đua sôi nổi và hiệu quả

TĐKT - Tạp chí Thi đua Khen thưởng là diễn đàn không chỉ dành cho cán bộ chuyên trách làm thi đua, khen thưởng các cấp; mà còn là nơi để người dân, tổ chức trên cả nước thể hiện tâm tư, nguyện vọng của mình trong khi tham gia các phong trào thi đua yêu nước và thực hiện các chính sách khen thưởng. Ông Nguyễn Công Bằng, Trưởng ban Ban Thi đua – Khen thưởng thành phố Hà Nội Đối với thành phố Hà Nội, trong thời gian vừa qua, đặc biệt là trong 3 năm trở lại đây, phát huy tinh thần “Hà Nội vì cả nước, cả nước vì Thủ đô”, được sự đồng ý của lãnh đạo thành phố, Ban Thi đua – Khen thưởng thành phố Hà Nội đã trực tiếp ký kết chương trình phối hợp với Tạp chí Thi đua Khen thưởng nhằm tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền về các phong trào thi đua yêu nước và gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt trên địa bàn thành phố. Đồng thời, thông qua diễn đàn của Tạp chí Thi đua Khen thưởng, Hà Nội có thể học tập thêm các mô hình làm thi đua, khen thưởng hay, hiệu quả ở các bộ ngành, tỉnh, thành, địa phương khác. Chúng tôi đánh giá cao quá trình phối hợp với Tạp chí, đã có rất nhiều đổi mới, sáng tạo để việc tuyên truyền đi sâu đến nhân dân Thủ đô nói riêng và bạn đọc cả nước nói chung. Điển hình là các cuộc tọa đàm, giao lưu trực tuyến với các điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt do Tạp chí Thi đua Khen thưởng và Ban Thi đua – Khen thưởng thành phố Hà Nội phối hợp tổ chức hàng năm. Đó thực sự là diễn đàn để những tấm gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt trên các lĩnh vực có cơ hội giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm, qua đó góp phần lan tỏa các giá trị sống tích cực, nhân văn đến với cộng đồng; xây dựng người Hà Nội đẹp thanh lịch, văn minh. Với vị thế là cơ quan tuyên truyền thuộc Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương, đội ngũ phóng viên, biên tập viên của Tạp chí có điều kiện hiểu rõ nhất về các phong trào thi đua, cơ chế chính sách về công tác khen thưởng. Do đó các bài viết về phong trào thi đua, gương điển hình tiên tiến được đội ngũ ban biên tập của Tạp chí khai thác tạo được sự lan tỏa sâu rộng và hiệu quả tốt. 20 năm qua là bước trưởng thành lớn của Tạp chí Thi đua Khen thưởng. Mong rằng, trong thời gian tới, bên cạnh phối hợp tuyên truyền với Hà Nội, Tạp chí Thi đua Khen thưởng còn thực sự là chiếc cầu nối để tiếp cận các chính sách, trao đổi những thông tin thắc mắc của các cơ quan làm thi đua, khen thưởng các cấp nói riêng, của nhân dân nói chung; làm sao tạo được động lực tốt nhất, cơ chế hiệu quả nhất để các tổ chức, đơn vị, mỗi người, mỗi gia đình đều có thể tham gia thi đua một cách hiệu quả nhất. Thay mặt cán bộ, công chức, người lao động Ban Thi đua - Khen thưởng TP Hà Nội, xin kính chúc toàn thể cán bộ, phóng viên, người lao động Tạp chí Thi đua Khen thưởng luôn mạnh khỏe, xây dựng đơn vị tiếp tục phát triển, cống hiến nhiều hơn nữa cho công tác thi đua, khen thưởng của cả nước. Ông Nguyễn Công Bằng  Trưởng ban Ban Thi đua – Khen thưởng thành phố Hà Nội  

Làm tròn nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục, động viên, cổ vũ các phong trào thi đua yêu nước của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân

TĐKT - Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Thi đua là một cách rất tốt, rất thiết thực để làm cho mọi người tiến bộ. Thi đua giúp cho đoàn kết chặt chẽ thêm và đoàn kết chặt chẽ để thi đua mãi”. Là một cơ quan thuộc Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương, Tạp chí Thi đua Khen thưởng đã luôn làm tròn nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục, động viên, cổ vũ các phong trào thi đua yêu nước của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Thiếu tướng PGS. TS. TTND Phạm Nguyên Sơn, Phó Giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 Trong nhiều năm qua, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 và Tạp chí Thi đua Khen thưởng luôn giữ mối quan hệ hợp tác bền chặt, thân thiết. Đội ngũ cán bộ, phóng viên chuyên trách thường xuyên quan tâm, hỗ trợ Bệnh viện đưa thông tin về các điển hình tiên tiến trong các phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, chính trị… Qua đó đã nhân rộng các tập thể, cá nhân điển hình ở nhiều vị trí, vai trò khác nhau trong Bệnh viện. Với cách khai thác đề tài sâu sắc mang tính đặc thù, luôn bám sát từng hoạt động, tìm kiếm, ghi nhận và tôn vinh những nỗ lực đổi mới, thành tựu y học; đồng thời chia sẻ khó khăn, vất vả của nghề y nói chung và những người chiến sỹ mang trên mình hai màu áo trắng-blouse, xanh-quân phục của đội ngũ quân y Bệnh viện TWQĐ 108; Bên cạnh đó, sự chỉn chu, đầu tư trong sản xuất tin, bài đã giúp cho mỗi sản phẩm của đội ngũ phóng viên, biên tập viên Tạp chí Thi đua Khen thưởng góp phần định hướng tích cực trong công tác thi đua, khen thưởng của Bệnh viện; giúp kịp thời động viên, khích lệ những thầy thuốc khoác áo lính tiếp tục làm tròn sứ mệnh cứu chữa đồng đội, nhân dân. Không chỉ là một trang thông tin tuyên truyền những tấm gương người tốt, việc tốt, Tạp chí Thi đua Khen thưởng còn là diễn đàn để học hỏi kinh nghiệm về công tác thi đua, khen thưởng, giúp các tổ chức, đơn vị thực hiện một cách thống nhất, chặt chẽ các hoạt động liên quan đến công tác thi đua, khen thưởng tại đơn vị mình. Trải qua 20 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, Tạp chí Thi đua Khen thưởng đã có những hoạt động thiết thực, hiệu quả trong nhiệm vụ tuyên truyền thông tin. Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 trân trọng cảm ơn sự hợp tác, đồng hành xuyên suốt của Tạp chí trên hành trình phát triển của Bệnh viện. Thời gian tới, Bệnh viện kính mong sẽ tiếp tục được phát triển mối quan hệ hợp tác với Tạp chí Thi đua Khen thưởng. Chúng tôi tin rằng, với truyền thống tốt đẹp của quý Tạp chí, cùng tinh thần trách nhiệm, nhiệt huyết, năng động, sáng tạo, chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên, Tạp chí sẽ ngày càng có nhiều đóng góp hiệu quả đối với công cuộc đổi mới của đất nước, sự phát triển của ngành Y tế nói chung và Bệnh viện nói riêng. Thiếu tướng PGS.TS.TTND Phạm Nguyên Sơn Phó Giám đốc Bệnh viện TWQĐ108    

Ông Vũ Tam Đạt, Trưởng Ban TĐKT tỉnh Ninh Bình: “Tạp chí Thi đua Khen thưởng vừa là bạn đồng hành, vừa là kho tư liệu quý”

20 năm qua, Tạp chí Thi đua Khen thưởng (TĐKT) đã trở thành cuốn cẩm nang không thể thiếu của những người làm công tác TĐKT nói chung và cán bộ, công chức Ban TĐKT tỉnh Ninh Bình nói riêng. Là độc giả của Tạp chí TĐKT đã lâu năm, tôi thường xuyên nghiên cứu, học hỏi và rất tâm đắc khi thấy Tạp chí ngày càng đổi mới cả về nội dung và hình thức. Các chuyên mục của Tạp chí phong phú, đa dạng, đăng tải được nhiều bài viết với nội dung chuyên sâu, giúp độc giả tìm được các thông tin, tư liệu có giá trị phục vụ việc nghiên cứu, trao đổi hoặc vận dụng vào thực tiễn công tác thi đua, khen thưởng. Ông Vũ Tam Đạt, Trưởng Ban TĐKT tỉnh Ninh Bình Lãnh đạo Ban TĐKT tỉnh Ninh Bình đánh giá cao những đóng góp của Tạp chí đối với công tác tuyên truyền các phong trào thi đua yêu nước, nhân rộng điển hình tiên tiến của tỉnh thời gian qua. Bằng sự năng động, nhạy bén, các phóng viên của Tạp chí đã thường xuyên phối hợp với Ban TĐKT tỉnh Ninh Bình tổ chức các chuyến đi thực tế về cơ sở để ghi hình, viết bài, sản xuất các video clip, phản ánh kịp thời kết quả các phong trào thi đua yêu nước, giới thiệu, lan tỏa các mô hình tốt, cách làm hay, điển hình tiên tiến tiêu biểu trên mọi mặt đời sống chính trị - kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng của tỉnh. Qua đó, góp phần khích lệ, động viên mọi tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua, phấn đấu hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao. Tôi mong rằng Tạp chí TĐKT tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, có nhiều đóng góp thiết thực hơn nữa, xứng đáng là cơ quan ngôn luận của ngành TĐKT. Phương Thanh (ghi)

Bà Lưu Thị Bích Đào, Trưởng Ban TĐKT tỉnh Thái Nguyên: Tạp chí Thi đua Khen thưởng là cầu nối giữa ý Đảng và lòng dân

Xác định đẩy mạnh tuyên truyền về các phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, xây dựng, nhân rộng điển hình tiên tiến là một trong những giải pháp quan trọng nhằm đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, thời gian qua, Ban TĐKT tỉnh Thái Nguyên đã tin tưởng và lựa chọn Tạp chí TĐKT để gửi gắm trọng trách đặc biệt này. Bà Lưu Thị Bích Đào, Trưởng Ban TĐKT tỉnh Thái Nguyên Là cơ quan ngôn luận của Ban TĐKT Trung ương, Tạp chí TĐKT đã khẳng định vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, giáo dục, động viên, cổ vũ các phong trào thi đua yêu nước của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; các nhân tố mới, các điển hình tiên tiến. Với những bài viết thấm đẫm hơi thở của cuộc sống, Tạp chí TĐKT đã thực sự trở thành cầu nối giữa ý Đảng và lòng dân. Cũng chính từ đây, không khí sôi nổi của các phong trào thi đua yêu nước, những việc làm bình dị mà cao quý của các tấm gương điển hình tiên tiến trên khắp mọi miền Tổ quốc nói chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng đã được phản ánh một cách chân thực, sống động, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ. Mong rằng trên chặng đường sắp tới, Tạp chí sẽ tiếp tục đồng hành cùng Ban TĐKT tỉnh Thái Nguyên trong công tác tuyên truyền, nhằm tạo sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức và trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể các cấp, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về vai trò, tác dụng của công tác thi đua, khen thưởng. Qua đó, khơi dậy tinh thần thi đua lao động sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn, lập nhiều thành tích trong thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Phương Thanh (ghi)

Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Ngày 11/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra "Lời kêu gọi thi đua ái quốc". 73 năm qua, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta luôn quán triệt và không ngừng vận dụng sáng tạo tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh để triển khai thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua và công tác thi đua, khen thưởng, góp phần thực hiện thắng lợi các chỉ thị, nghị quyết của Đảng trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Hoàn cảnh ra đời, ý nghĩa "Lời kêu gọi thi đua ái quốc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh Hoàn cảnh ra đời - Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thực dân Pháp dã tâm dùng vũ lực hòng đặt lại ách thống trị trên đất nước ta một lần nữa.  Trước vận mệnh đất nước đang ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” vì thù trong, giặc ngoài, nạn đói, nạn dốt hoành hành khắp nơi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ việc động viên sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam là điều rất cần thiết để thực hiện nhiệm vụ cấp bách của cách mạng: Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. - Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Với ý chí “thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, toàn dân tộc Việt Nam đã nhất tề đứng lên kháng chiến, chống thực dân Pháp xâm lược. Sau chiến thắng Việt Bắc (Thu Đông 1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh mới đề ra sáng kiến tổ chức, lãnh đạo phong trào thi đua ái quốc để giành thắng lợi to lớn hơn. Chấp thuận đề nghị của Người, ngày 27/3/1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc. Chỉ thị xác định: "… mục đích thi đua ái quốc là làm sao cho kháng chiến mau thắng lợi, kiến thiết chóng thành công". Sau khi Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị, nhân kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến (Ngày Nam Bộ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 23/9/1945), ngày 11/6/1948 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi thi đua ái quốc”. Ý nghĩa Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh có tác dụng hiệu triệu, lôi cuốn, động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, vượt qua mọi hy sinh gian khổ hoàn thành tốt nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Đặc biệt trong những thời khắc cam go, ác liệt của dân tộc, Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân, biến thành sức mạnh đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi vẻ vang. Lời kêu gọi thi đua ái quốc cùng với nhiều bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những quan điểm, chỉ đạo, định hướng phong trào thi đua yêu nước trong nhiều thập kỷ qua; là cơ sở để Đảng, Nhà nước bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương về thi đua yêu nước, về công tác thi đua - khen thưởng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Ngày nay trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn vẹn nguyên ý nghĩa lịch sử, giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Để tiếp tục phát huy ý nghĩa, giá trị của Lời kêu gọi thi đua ái quốc và sức mạnh của các phong trào thi đua yêu nước, tạo khí thế thi đua sôi nổi, rộng khắp trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, ngày 04/3/2008, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 258/QĐ-TTg Về việc lấy ngày 11 tháng 6 hàng năm là Ngày Truyền thống thi đua yêu nước.   Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước và sự vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước  Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước là hệ thống quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, được hình thành trên cơ sở tiếp thu và vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản chủ nghĩa Mác-Lênin về thi đua, về thi đua xã hội chủ nghĩa, về vai trò của quần chúng và truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm của dân tộc, cùng đường lối và thực tiễn đấu tranh cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.   Từ nội dung của “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” và những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, rút ra một số điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước như sau: Quan điểm về thi đua: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng thi đua lên tầm tư tưởng, đường lối chính trị và phương pháp cách mạng. Theo Người thi đua là một trong những biện pháp của quá trình vận động cách mạng, có ý nghĩa sâu sắc, rộng lớn, thi đua không chỉ khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người, mà quan trọng hơn là cải tạo bản thân con người, nêu cao tinh thần yêu nước, tinh thần quốc tế, làm cho già, trẻ, gái, trai và tất cả các tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, địa vị xã hội đều hướng tới mục đích chung. Thi đua để mọi người đều làm việc tốt hơn, nhiều hơn và “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và, những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Mục đích thi đua yêu nước: Là để thực hiện tốt nhiệm vụ chủ yếu của mỗi thời kỳ cách mạng trong tình hình và điều kiện lịch sử cụ thể. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ mục đích thi đua yêu nước là “Diệt giặc đói, Diệt giặc dốt, Diệt giặc ngoại xâm”, để đem lại kết quả đầu tiên là: “Toàn dân đủ ăn, đủ mặc, Toàn dân biết đọc, biết viết, Toàn bộ đội đầy đủ lương thực, khí giới để diệt ngoại xâm Toàn quốc sẽ thống nhất độc lập hoàn toàn”. Nội dung thi đua yêu nước: phải toàn diện, phải xuất phát và phục vụ nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng, phải thiết thực, ở tất cả các lĩnh vực hoạt động của đất nước, gắn với nhiệm vụ cụ thể của từng ngành, từng cấp, hướng vào cải tạo và xây dựng con người mới, hướng vào giải quyết những vấn đề cơ bản thiết thực của Nhân dân; thi đua phải gắn với công việc hằng ngày của mỗi người. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: Quân sự, Kinh tế, Chính trị, Văn hóa. Thực hiện khẩu hiệu: "Toàn dân kháng chiến, Toàn diện kháng chiến” Cách tổ chức phong trào thi đua yêu nước: theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Phải dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân, để gây: hạnh phúc cho dân”; các phong trào thi đua yêu nước cần phải đa dạng, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần tự giác, sáng tạo và sức lực của các tầng lớp nhân dân trong từng giai đoạn cách mạng.  Phương châm thi đua yêu nước: Người chỉ rõ: “thi đua chứ không phải ganh đua” nên cần phải đoàn kết, thân ái giúp đỡ lẫn nhau để đạt thành tích cao. “giúp đỡ những người và những nhóm còn kém theo kịp mức cao hiện nay”; thi đua phải gắn liền với công tác khen thưởng; khen thưởng là kết quả của phong trào thi đua; khen thưởng đúng người, đúng việc, kịp thời sẽ động viên, giáo dục và thúc đẩy phong trào thi đua phát triển liên tục. Cùng với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng, tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước có ý nghĩa to lớn trong việc chỉ đạo, định hướng các phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng; lôi cuốn, động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, không quản hy sinh gian khổ, sẵn sàng đem hết trí tuệ, sức lực phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước vào thực tiễn cách mạng Việt Nam  Kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc, Đảng, Nhân dân ta luôn quán triệt và không ngừng vận dụng sáng tạo tư tưởng thi đua yêu nước của Người để triển khai thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua và công tác thi đua, khen thưởng, góp phần thực hiện thắng lợi các chỉ thị, nghị quyết của Đảng trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Vận dụng sáng tạo tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào phát động và tổ chức thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước trong từng giai đoạn cách mạng Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổ chức phát động nhiều phong trào thi đua yêu nước mang lại hiệu quả thiết thực như: Phong trào: “Tuần lễ vàng”, “Bình dân học vụ”, vận động “Đời sống mới”, Quỹ Độc lập, Quỹ đảm phụ Quốc phòng,... đến phong trào thi đua xây dựng đời sống mới, phong trào thi đua trong sản xuất nông nghiệp như: “Thi đua tiết kiệm, tránh xa xỉ, phí phạm, để dành lương thực cho bộ đội hoặc cho những lúc túng thiếu” (ngày 01/3/1950), thi đua với tinh thần “ruộng đất là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ, hậu phương thi đua với tiền phương” (tháng 02/1951), “thi đua đóng thuế nông nghiệp” (tháng 3/1953), ... Các phong trào thi đua yêu nước thời kỳ này đã thu hút được sự tham gia hưởng ứng của mọi người, mọi nhà, mọi ngành, mọi lứa tuổi, góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.  Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam (1954-1975): Quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh; thực hiện Nghị quyết ngày 26/01/1961 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước”, và nhất là từ khi miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, hàng loạt cuộc phát động hưởng ứng thi đua của các ngành, các giới đã được tổ chức, điển hình là các phong trào: “Sóng Duyên hải”, “Gió Đại Phong”, “Cờ Ba nhất”, “Trống Bắc Lý”, “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”,... Các phong trào thi đua đã tạo nên động lực to lớn, góp phần làm nên Đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước: Đảng ta tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, phát động nhiều phong trào thi đua yêu nước, hướng vào các nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tiêu biểu là các phong trào: “Tất cả vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”; “Tất cả vì công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước (năm 1986), đặc biệt là từ sau Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, được soi sáng bởi tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã đề ra khẩu hiệu thi đua: “Tất cả vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhiều phong trào được phát động và thực hiện có hiệu quả như: “Xóa đói, giảm nghèo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Tuổi trẻ sáng tạo”, “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”, “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, “Thi đua quyết thắng”, “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, “Nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững”, “5 xung kích, 4 đồng hành”, “Trung thành, sáng tạo, tận tụy, gương mẫu”, “Thi đua dạy tốt, học tốt”, “5 không, 3 sạch”,  “Vì Trường Sa thân yêu”, Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, phong trào “Cựu chiến binh gương mẫu”,... Và gần đây là cả nước đang tập trung triển khai và thực hiện có hiệu quả ba phong trào lớn: “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển”, “Cả nước chung tay vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau”. Nhìn chung, các phong trào thi đua yêu nước trong nhiều thập kỷ qua đã bám sát yêu cầu thực tiễn đất nước, gắn bó mật thiết với quyền lợi và cuộc sống của người dân, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển của đất nước trên mọi lĩnh vực. Vận dụng sáng tạo tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng và thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách về công tác thi đua - khen thưởng Trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, vận dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước, Đảng, Nhà nước ta đã xây dựng, ban hành kịp thời đường lối, chủ trương và chính sách, pháp luật về thi đua yêu nước và công tác thi đua, khen thưởng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Đặc biệt qua 35 năm đổi mới đất nước, nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về công tác thi đua, khen thưởng, về tổ chức các phong trào thi đua yêu nước đã được ban hành và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu đất nước trong tình hình mới, phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Đảng đã ban hành nhiều chỉ thị về công tác thi đua, khen thưởng, như: Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 03/6/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn mới; Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 21/5/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến; Chỉ thị số 19/CT-TW, ngày 22/12/2007, Bộ Chính trị (khóa IX) về việc kỷ niệm 60 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc; Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị (khóa XI) ban hành Về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng; Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 23/01/2018 của Ban Bí thư về đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước... Quốc hội đã ban hành Luật Thi đua, Khen thưởng (2003); Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng (2013). Chính phủ đã ban hành các văn bản về công tác thi đua, khen thưởng: Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng; Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng; Quyết định số 38/1999/QĐ-TTg ngày 06/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ và Bản quy định về đối tượng, tiêu chuẩn Anh hùng thời kỳ đổi mới và các danh hiệu thi đua khác; Chỉ thị số 35/CT-TTg, ngày 19/12/2014 về việc đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước chào mừng Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII; Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 19/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phát động thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2016 và Kế hoạch 5 năm (2016 - 2020) theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.  Các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng, về phát động phong trào thi đua yêu nước ngày một hoàn thiện, bám sát yêu cầu của thực tiễn đất nước, đi vào cuộc sống, tạo chuyển biến sâu sắc về nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân về công tác thi đua, khen thưởng. Nhiều phong trào thi đua yêu nước được phát động và triển khai rộng lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội với nội dung, hình thức phong phú, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đáng chú ý là công tác phát hiện, tôn vinh, bồi dưỡng và nhân rộng các gương “người tốt, việc tốt”, các mô hình, các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, các Anh hùng, chiến sỹ thi đua được chú trọng, triển khai thực hiện có hiệu quả, tạo sức lan tỏa rộng lớn trong toàn xã hội; công tác khen thưởng đi vào nền nếp, khoa học, kịp thời hơn, có sự gắn kết chặt chẽ giữa thi đua và khen thưởng.  Những kết quả đạt được trong các phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng 73 năm qua là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, cùng với sự nỗ lực, tinh thần trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân và toàn xã hội./. Theo: Ban Tuyên giáo Trung ương

Trang