Diễn đàn

Đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan nhà nước đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính và chuyển đổi số hiện nay

BTĐKT - Đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) nhằm nâng cao chất lượng trong cơ quan nhà nước là nội dung quan trọng trong quá trình cải cách nền hành chính nhà nước nói chung và cải cách công vụ, công chức nói riêng. Công tác này trở nên cấp thiết hơn khi tình trạng không ít CBCCVC có năng lực nghỉ việc thời gian qua và khi triển khai Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 31/7/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong bối cảnh đang thực hiện chuyển đổi số quốc gia. Bài viết đi sâu phân tích nội hàm lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế về quản lý CBCCVC theo vị trí việc làm và khung năng lực, có so sánh với một số cách thức quản lý nguồn nhân lực khác, qua đó đối chiếu với thực tiễn trong nước để làm rõ, đóng góp một số nội dung tham khảo trong quá trình thu hút, giữ chân và phát triển CBCCVC có năng lực trong cơ quan nhà nước thời gian tới. Từ khóa: Vị trí; Việc làm; Khung năng lực; Quản lý cán bộ, công chức, viên chức  (nguồn internet) 1. Cơ sở lý luận về quản lý CBCCVC theo vị trí việc làm và khung năng lực 1.1. Vị trí việc làm Theo lý thuyết quản lý nguồn nhân lực, một công việc (hay một việc làm) bao gồm một nhóm nhiệm vụ phải thực hiện để một tổ chức đạt được các mục tiêu của mình. Một việc làm có thể là yêu cầu công việc của một người, như việc làm của người đứng đầu cơ quan, hoặc là công việc của vài chục người như trường hợp của các nhà điều hành trong một công ty lớn. Một vị trí là tập hợp các nhiệm vụ và trách nhiệm, thường do một người thực hiện; mỗi cá nhân đều giữ một vị trí trong một tổ chức. Một số nước sử dụng thuật ngữ vị trí việc làm như là một vị trí nghề nghiệp, một công việc cụ thể có chức danh bao gồm một tập hợp các nhiệm vụ có liên quan do một người thực hiện nhằm đạt được một mục đích nhất định. Một số nước sử dụng thuật ngữ vai trò tại nơi làm việc song song với thuật ngữ vị trí việc làm, nhấn mạnh vào người đảm trách vị trí việc làm hơn là vào bản thân công việc đó. Như vậy, có thể hiểu vị trí việc làm là công việc ứng với một vị trí lao động thực tế, trong một địa điểm và tại một thời điểm nhất định, được đánh giá và đãi ngộ cho việc thực hiện công việc đó. Hoàn thành yêu cầu công việc của vị trí việc làm là cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thành yêu cầu nhiệm vụ trong công việc đó, đánh giá chất lượng, kết quả thực thi của từng cá nhân. Quản lý theo vị trí việc làm nhấn mạnh vào việc đáp ứng theo yêu cầu công việc của một vị trí, một công việc cụ thể. Vị trí việc làm trong khu vực công ở nước ta hiện nay gắn với cơ cấu ngạch công chức, chức danh viên chức để xác định biên chế công chức, số lượng viên chức, bố trí sắp xếp nhân sự trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Theo tính chất, khối lượng công việc, có vị trí việc làm đặc thù chỉ do một người đảm nhận; có một số vị trí việc làm để thực hiện một công việc do nhiều người đảm nhận; trên thực tế, có vị trí việc làm kiêm nhiệm. Có vị trí việc làm theo chức vụ lãnh đạo, quản lý; có vị trí việc làm theo lĩnh vực công tác chuyên sâu, đặc thù; có vị trí việc làm theo chuyên môn nghiệp vụ dùng chung (như tài chính, kế hoạch và đầu tư, thanh tra, pháp chế, hợp tác quốc tế, tổ chức cán bộ, thi đua - khen thưởng, văn phòng); có vị trí việc làm theo công việc mang tính tác nghiệp, hỗ trợ, phục vụ... Căn cứ xác định vị trí việc làm là chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan, tổ chức; mức độ phức tạp, tính chất, đặc điểm, quy mô hoạt động; phạm vi, đối tượng phục vụ; quy trình quản lý, quy trình giải quyết công việc chuyên môn, nghiệp vụ. Cấu trúc của mỗi vị trí việc làm trong cơ quan, tổ chức, đơn vị gồm bản mô tả công việc và khung năng lực phù hợp để phục vụ công tác quản lý và phát triển nguồn nhân lực. Các bộ phận cấu thành vị trí việc làm gồm: Tiêu đề vị trí việc làm (chức danh); nhiệm vụ và quyền hạn của người đảm nhiệm vị trí việc làm (chức trách); yêu cầu về trình độ, kỹ năng chuyên môn mà người đảm nhiệm vị trí việc làm phải đáp ứng (tiêu chuẩn); tiền lương tương xứng với vai trò của người đảm trách vị trí việc làm, chế độ đãi ngộ và các điều kiện làm việc. Nguyên tắc xác định và quản lý vị trí việc làm cần bảo đảm: Tuân thủ quy định của pháp luật về quản lý CBCCVC; xác định và điều chỉnh phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, đơn vị; gắn với chức danh nghề nghiệp, chức vụ lãnh đạo quản lý tương ứng; bảo đảm tính khoa học, khách quan, công khai, minh bạch và phù hợp với thực tiễn.  (nguồn internet) 1.2. Khung năng lực Khung năng lực được cấu thành từ các năng lực, là tập hợp của các khả năng, kỹ năng, kinh nghiệm, thái độ và các phẩm chất cần có để người CBCCVC thực hiện hiệu quả chức trách, nhiệm vụ trong cơ quan, tổ chức. Đó là công cụ mô tả các năng lực cần thiết phù hợp với một dạng hoạt động cụ thể, một nghề nghiệp, tổ chức hoặc ngành nghề nhất định. Khung năng lực có thể bao gồm những năng lực đại diện cho các năng lực được tích hợp cần thiết để đảm bảo năng suất, hiệu quả tối đa theo các tiêu chuẩn do tổ chức đặt ra. Đây là công cụ quan trọng để đánh giá kết quả thực thi, phục vụ công tác lập kế hoạch phát triển nghề nghiệp của cá nhân, quy hoạch kế cận và phát triển tài năng của tổ chức. Khung năng lực mô tả sự kết hợp cụ thể về kiến thức, kỹ năng, thái độ, hành vi và những đặc tính cá nhân khác cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ đó đạt năng suất, hiệu quả. Khung năng lực thường bao gồm các thành phần cơ bản như sau: 1) Tên năng lực hoạt động chính, được sử dụng để xác định chức năng, nhiệm vụ của công việc; 2) Định nghĩa năng lực, để mô tả chung về hành vi, kỹ năng và những hoạt động cần thực hiện để đạt được kết quả mong muốn; 3) Các cấp độ năng lực, để xác định hành vi của người CBCCVC cần có để thực hiện hiệu quả công việc và làm chủ khả năng đó. Các cấp độ được sắp xếp theo chiều tăng dần của kiến thức, kỹ năng và thái độ với công việc. Khi đã đạt năng lực ở cấp độ cao thì tất yếu đã có năng lực ở cấp độ thấp hơn; 4) Chỉ số năng lực, để mô tả mức độ mà người CBCCVC làm chủ được các tiêu chí của các cấp độ năng lực; chỉ số này được thể hiện bằng những thông số cụ thể. Như vậy, khung năng lực nhấn mạnh vào con người thực hiện công việc, là tập hợp các năng lực - là các kỹ năng, kiến thức và hành vi có thể quan sát và đo lường được, giúp thúc đẩy sự tiến bộ về năng lực, góp phần nâng cao kết quả thực thi của người CBCCVC và thành công của tổ chức. Khung năng lực có thể phục vụ việc phân tích tình trạng hẫng hụt kỹ năng, so sánh giữa năng lực sẵn có và năng lực cần có của các cá nhân CBCCVC và của cả cơ quan, tổ chức; qua đó, giúp nhận diện năng lực còn thiếu, dự báo được năng lực nào cần bổ sung, phát triển để thực thi hiệu quả trong công việc hiện tại hoặc chuẩn bị sẵn sàng cho công việc sắp tới của cá nhân cũng như toàn tổ chức. Việc gắn kết cách thức quản lý theo vị trí việc làm và khung năng lực với cách thức quản lý theo kết quả thực thi ngày càng trở nên quan trọng vì các tổ chức cố gắng có sự cân bằng hợp lý giữa mục tiêu đạt kết quả đã xác định và cách thức hoàn thành công việc của CBCCVC. Hiện nay, nhiều quốc gia đã áp dụng kết hợp cách thức quản lý nguồn nhân lực theo năng lực với cách thức quản lý theo kết quả thực thi để xây dựng khung năng lực bao hàm tất cả các năng lực thuộc về hành vi cũng như các năng lực về chuyên môn nghiệp vụ (kỹ năng), áp dụng trong toàn bộ hoặc một phần của tổ chức. Trong thực tiễn cải cách tiền lương một số nước gợi mở việc xây dựng hệ thống đãi ngộ tổng thể, trong đó tăng lương cơ bản gắn với việc nâng cao năng lực của cá nhân, và thực hiện khen thưởng và một số hình thức khích lệ vật chất, tinh thần mang tính khuyến khích để đạt các mục tiêu theo kết quả với hiệu suất cao. Do đó, các cơ quan, tổ chức có thể tham khảo, xây dựng hệ thống đãi ngộ, khen thưởng, đào tạo, bồi dưỡng và thăng tiến theo năng lực, khuyến khích CBCCVC đạt năng lực cao hơn chuẩn đã định hay có tiến bộ trong nâng cao năng lực thực tiễn, khuyến khích việc đổi mới sáng tạo, thi đua đạt thành tích, kết quả cao trong thực thi nhiệm vụ. 2. Các yếu tố bảo đảm thực hiện quản lý theo vị trí việc làm và khung năng lực 2.1. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực phù hợp Thứ nhất, thực hiện phân tích công việc theo vai trò nhằm xác định đặc điểm, tính chất của từng (nhóm) chức danh, vị trí việc làm. Quá trình xây dựng khung năng lực thực chất là hoạt động thu thập, phân tích và xử lý thông tin để đưa ra một bộ các năng lực cần có cũng như các tiêu chí đánh giá năng lực đối với một vị trí, một công việc hoặc một nhóm vị trí việc làm nhất định. Khi xây dựng khung năng lực, cần bắt đầu từ khối lượng, tính chất công việc và chức năng, nhiệm vụ. Xác định được năng lực chủ yếu mà người đảm trách phải có để thực hiện hiệu quả một công việc, một vị trí công tác. Phân tích công việc là quá trình, qua đó một tổ chức nghiên cứu, phân chia công việc và phân công cho các đơn vị, các vị trí thực hiện. Qua phân tích công việc, các tổ chức còn xác định được chuẩn năng lực - đây là một quá trình mang tính hệ thống, thực hiện theo từng bước, đảm bảo những năng lực được xác định thông qua phân tích công việc thực sự là những năng lực cần thiết để hoàn thành công việc có chất lượng, hiệu quả. Phân tích công việc thường được tiến hành: Khi tổ chức được thành lập và chương trình phân tích công việc được khởi xướng lần đầu; khi một số công việc mới được tạo ra; khi các công việc có những thay đổi quan trọng theo yêu cầu đáp ứng công nghệ, phương pháp, quy trình hay hệ thống mới. Phân tích công việc thường được sử dụng nhiều nhất khi có sự thay đổi về bản chất, nội dung của công việc. Phân tích công việc giúp xây dựng Bản tiêu chuẩn công việc, bao gồm những trình độ, năng lực tối thiểu ở mức chấp nhận được mà một người cần đạt được để có thể thực hiện một công việc cụ thể. Trên thực tế, nhiều tổ chức kết hợp bản tiêu chuẩn công việc thành một nội dung trong bản mô tả công việc. Phân tích vai trò nhấn mạnh vào con người thực hiện công việc, là quá trình chỉ ra những kết quả mà người đảm nhận vị trí việc làm được trông đợi hoàn thành khi thực hiện công việc của họ; hành vi và kỹ năng họ cần có để đáp ứng các kỳ vọng đó. Hoạt động này là cơ sở để xây dựng hồ sơ vai trò - chỉ ra các lĩnh vực kết quả chính của vai trò, nhưng quan trọng hơn, xác định rõ các năng lực cần thiết để thực hiện thành công vai trò đó. Khung năng lực theo vai trò, được sử dụng để đánh giá cấp độ năng lực biểu lộ ra trong việc đạt được, hoặc có thể trong một số trường hợp, không đạt được các kết quả dự kiến. Đối với từng vị trí việc làm, phân tích công việc theo vai trò thu thập thông tin cần thiết về công việc và yêu cầu nhiệm vụ của vị trí việc làm, cũng như thái độ, hành vi, kỹ năng của người thực hiện vai trò đó để đạt chất lượng cao trong công việc. Theo đó, người đảm nhận vị trí việc làm có thể tiến hành tự đánh giá năng lực và kết quả thực thi, tự xác định các nhu cầu học tập, xây dựng lộ trình phát triển cá nhân của mình phù hợp với chiến lược của tổ chức. Phân tích công việc theo vai trò có thể dựa trên thông tin do CBCCVC thực thi công việc, đồng nghiệp, cấp trên và các bên có liên quan cung cấp theo phương pháp phản hồi 360 độ để đáp ứng yêu cầu của tổ chức cả trong hiện tại và tương lai. Thứ hai, xác định đầy đủ, chính xác các năng lực cần thiết để đạt được các kết quả đầu ra của vị trí việc làm nhằm tích hợp trong khung năng lực. Xác định vị trí việc làm không chỉ xác định khối lượng, số lượng nhiệm vụ, đầu việc phải thực hiện ở một vị trí, một công việc nhất định trong cơ quan, đơn vị mà quan trọng hơn là phải xác định được đặc điểm, tính đặc thù, độ phức tạp của công việc và trình độ, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cần thiết cũng như thái độ, ý thức trách nhiệm của người CBCCVC đối với công việc đó. Đây là căn cứ quan trọng trong việc thu hút, tuyển chọn, sử dụng CBCCVC có năng lực trong các cơ quan, đơn vị. Khi xây dựng bản mô tả công việc, cơ quan, tổ chức cần xác định các hoạt động và thời gian CBCCVC phải thực hiện để hoàn thành từng đầu việc, từng hoạt động ở mỗi vị trí việc làm và kết quả (sản phẩm) công việc của vị trí việc làm cũng như điều kiện làm việc (trang thiết bị, phần mềm quản lý, phương tiện, môi trường làm việc, phạm vi hoạt động, quan hệ công tác) của từng vị trí việc làm; từ đó, kết hợp với khung năng lực chung, sẽ cụ thể hóa thành khung năng lực, bản mô tả công việc cần có đối với vai trò của người đảm nhận vị trí việc làm đó. Qua việc xây dựng hệ thống khung năng lực và các bản mô tả công việc, có thể xác định được yêu cầu, tiêu chuẩn về chuyên môn, hành vi và kỹ năng cần thiết của CBCCVC đảm trách từng vị trí việc làm. Đặc biệt, khung năng lực giúp xác định được các tiêu chí để lựa chọn ứng viên phù hợp với từng vị trí việc làm, phù hợp với văn hóa làm việc và môi trường công tác của cơ quan, tổ chức, ngành nghề, trong đó có tiêu chí về thái độ, hành vi ứng xử. Dựa vào cấp độ yêu cầu cho từng năng lực, các tổ chức có thể xây dựng kế hoạch thu hút, tuyển chọn, sử dụng CBCCVC và xác định cụ thể các kiến thức, kỹ năng, phẩm chất cần thiết cho vị trí việc làm đó và sử dụng thông tin này làm tiêu chí đánh giá trong suốt quá trình tuyển chọn, sử dụng và phát triển CBCCVC.  (nguồn internet) 2.2. Vấn đề áp dụng cách thức quản lý theo vị trí việc làm và khung năng lực trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC Một là, cần xác định được cấu trúc và yêu cầu của khung năng lực trong mối quan hệ với vị trí việc làm. Khung năng lực được xây dựng trên các phạm vi và mức độ khác nhau. Mức độ tổng thể, là “khung pháp lý” chung cho tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý hoặc cho chuyên môn, nghiệp vụ theo lĩnh vực, ngành nghề của cả nước hay toàn hệ thống công vụ để bảo đảm có sự thống nhất và nhất quán; đồng thời, phát huy được tính linh hoạt, độ “mở” nhất định để mỗi ngành, lĩnh vực, địa phương, cơ quan, tổ chức có thể cụ thể hóa các tiêu chuẩn chung này cho phù hợp với đặc điểm tình hình của cơ quan, tổ chức, đặc thù từng vị trí việc làm, lĩnh vực công tác và luôn đề cao nguyên tắc thực tài trong mọi trường hợp, mọi nội dung của công tác quản lý, phát triển nguồn nhân lực nói chung và quản lý CBCCVC nói riêng. Chỉ khi nào lượng hóa được các tiêu chí để đo lường một năng lực từ khung tổng thể đã quy định thì tính khả thi của khung năng lực mới có thể đạt được. Do đó, khi xây dựng khung năng lực cho các vị trí việc làm, cần phân tích rõ yêu cầu nhiệm vụ của công việc tương ứng với trình độ, cấp độ năng lực của CBCCVC cần đáp ứng. Khung này giúp nhận biết, đo lường năng lực của một CBCCVC so sánh với năng lực tại khung chung, đồng thời đánh giá chuẩn xác, khách quan việc thực thi nhiệm vụ, và hỗ trợ quá trình đào tạo, bồi dưỡng, phát triển năng lực cụ thể. Trong thời kỳ chuyển đổi số và có nhiều thay đổi nhanh chóng, khó lường hiện nay, nhiều hệ thống công vụ đã cập nhật vào khung năng lực một số năng lực mới như: năng lực dự đoán sự thay đổi để lên kịch bản ứng phó với từng tình huống; năng lực quản lý tổng thể để giải quyết đồng bộ những vấn đề phức hợp, cần có cơ chế phối hợp liên ngành; khả năng ứng dụng công nghệ, kỹ năng mềm trong việc thực hiện nhiệm vụ. Trong quá trình cập nhật, hoàn thiện khung năng lực trong điều kiện chuyển đổi số, nhiều nước nhấn mạnh các năng lực của CBCCVC bao hàm cả thái độ, hành vi ứng xử, kỹ năng truyền thông, giao tiếp trên môi trường mạng nhằm tận dụng những lợi thế về công nghệ số và vượt qua những thách thức trong xây dựng và thực hiện chính phủ số, kinh tế số và xã hội số trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa hiện nay. Hai là, xác định các nhóm năng lực cần thiết phục vụ công tác tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng và phát triển năng lực CBCCVC. Để xây dựng đội ngũ CBCCVC đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ở hiện tại và trong tương lai, cần xác định năng lực làm tiêu chuẩn để thực hiện các khâu của công tác cán bộ, từ thu hút, tuyển chọn, sử dụng, đánh giá đến luân chuyển, đề bạt, đãi ngộ và phát triển CBCCVC. Trong đó, chính sách quản lý CBCCVC không những tập trung vào kết quả thực thi mà còn chú trọng đến năng lực, cách thức cần có để hoàn thành mục tiêu công việc. Việc lập kế hoạch phát triển nghề nghiệp cá nhân, quy hoạch đội ngũ kế cận và tạo động lực thông qua chế độ đãi ngộ và khuyến khích vật chất, tinh thần dựa trên năng lực và theo kết quả thực thi, trên nguyên tắc thực tài, là điều kiện bảo đảm tính khả thi trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC. Khung năng lực dùng để tham chiếu trong việc đánh giá CBCCVC, là cơ sở cho việc đánh giá cấp độ năng lực và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của CBCCVC. Cơ quan, tổ chức căn cứ vào khung năng lực của vị trí việc làm để lựa chọn, bố trí sử dụng đúng người, đúng việc, đúng sở trường, bổ nhiệm công chức theo đúng tiêu chuẩn, đãi ngộ theo năng lực và mức độ hoàn thành nhiệm vụ, hoặc quy hoạch vào các vị trí phù hợp với triển vọng để bồi dưỡng phát triển. Đồng thời, khung năng lực còn hỗ trợ hiệu quả việc xác định nhu cầu luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng hoặc nhận diện những năng lực mà CBCCVC chưa đạt chuẩn theo yêu cầu của vị trí việc làm để giúp họ có cách thức và nội dung học tập phù hợp. Một số hệ thống công vụ sử dụng thuật ngữ phát triển năng lực như là một quá trình giúp CBCCVC tiến bộ từ tình trạng hiểu biết và năng lực hiện tại sang tình trạng học thức, kỹ năng và năng lực theo yêu cầu của tương lai. Đào tạo, bồi dưỡng và phát triển diễn ra với hình thức của các hoạt động học tập để chuẩn bị cho mỗi CBCCVC gánh vác các trách nhiệm nhiều và cao hơn. Công tác phát triển giúp các cơ quan, tổ chức xây dựng đội ngũ CBCCVC quản lý cũng như chuyên môn đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai. Công tác này giúp nâng cao hiệu suất thực thi của CBCCVC, cung cấp các cơ hội phát triển và phục vụ cho việc quy hoạch nhân sự, chuẩn bị đội ngũ kế cận không chỉ phục vụ phát triển lãnh đạo mà còn phát triển chức nghiệp theo chuyên môn. Theo đó, thuật ngữ làm giàu công việc (làm phong phú nội dung công việc) được sử dụng nhiều để chỉ cách thức các cơ quan mở rộng nhiệm vụ, bổ sung trách nhiệm, quyền tự quyết trong vai trò mà CBCCVC được giao mà không nhất thiết phải bằng hình thức bổ nhiệm lên chức vụ cao hơn nhằm truyền nhiệt huyết yêu nghề và tạo điều kiện cho CBCCVC hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ba là, vận dụng cách thức quản lý theo vị trí việc làm và khung năng lực trong thu hút, giữ chân, trọng dụng người có tài năng . Quản lý tài năng bao gồm việc hoạch định và phát triển tài năng, được sử dụng như là cách thức nhấn mạnh các vấn đề của tổ chức trong việc thu hút và giữ được những người có tài năng. Tuy nhiên, một số tổ chức đánh giá quá cao nhân sự bên ngoài và chưa chú trọng nhân tài sẵn có. Một số tổ chức khác chỉ quan tâm đến những nhân sự chủ chốt nhằm nâng cao phẩm chất, tính hữu dụng và khả năng sử dụng linh hoạt các nhân viên có năng lực đặc biệt - những người có tác động ảnh hưởng lớn đến kết quả thực thi của tổ chức, bỏ qua những người có kiến thức, kỹ năng trên từng lĩnh vực, từng vị trí việc làm, có thể đóng góp lớn cho tổ chức nếu được phát huy năng lực, sở trường. Do vậy, nhiều nước thực hiện cách tiếp cận vừa thu hút những người có năng lực từ nhiều nguồn trong xã hội vừa tạo điều kiện phát triển năng lực đội ngũ CBCCVC hiện có. Họ xây dựng hệ thống công vụ mở hơn nhằm thu hút tài năng phong phú, từ nhiều khu vực ngoài nhà nước; đồng thời, nhấn mạnh khái niệm tài năng như là năng lực cụ thể trên từng vị trí, từng công việc để phát huy điểm mạnh, sở trường của từng CBCCVC trong cơ quan, đơn vị. Trong quá trình cải cách hành chính, hoàn thiện thể chế, pháp luật về công vụ, công chức và triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài hiện nay, chúng ta có thể nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm quản lý tài năng theo từng lĩnh vực, ngành nghề, vị trí việc làm để nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC trong các cơ quan nhà nước. Trên cơ sở hệ thống khung năng lực với đầy đủ định nghĩa và mô tả cho từng cấp độ năng lực đối với từng vị trí, chức danh CBCCVC, có thể thu hút, đánh giá, trọng dụng và phát triển những người có tài năng, có năng lực phù hợp để bố trí vào các vị trí việc làm và phát triển cá nhân CBCCVC theo nguyên tắc thực tài. Việc kết hợp phù hợp cách thức thi để bổ nhiệm với cách thức xét tuyển thông qua quá trình rèn luyện, bồi dưỡng, luân chuyển cũng là một trong những cách thức tuyển dụng “mở” để lựa chọn người có đủ phẩm chất, năng lực và tín nhiệm để tuyển dụng vào các vị trí theo quy hoạch phát triển của tổ chức và kế hoạch phát triển cá nhân CBCCVC. 3. Đề xuất khung năng lực của CBCCVC và các điều kiện áp dụng Quá trình xây dựng khung năng lực cần chú ý đến các điều kiện và cách thức áp dụng sau: Thứ nhất, xác định rõ các năng lực của các vị trí và tích hợp được trong một khung năng lực. Quản lý theo vị trí việc làm và khung năng lực luôn gắn với việc xác định năng lực, xây dựng một khung năng lực và sử dụng khung năng lực đó như một căn cứ để tuyển chọn, đào tạo, phát triển, đãi ngộ theo (các) mục tiêu đã xác định của lĩnh vực quản lý nguồn nhân lực cụ thể. Một trong những vấn đề quan trọng là việc chuyển hóa các yêu cầu trong chiến lược của tổ chức thành các năng lực cá nhân cần thiết cho việc thực hiện và hỗ trợ chiến lược đó trong tổ chức. Cần tích hợp các năng lực đó trong một khung năng lực. Cần xác định khung năng lực đó được thiết kế phục vụ cho một hoặc một số mục đích quản lý nguồn nhân lực nào, chẳng hạn như để tuyển dụng CBCCVC đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, để phát triển một số năng lực cần thiết đang thiếu hụt, hay để thu hút tài năng trên một số lĩnh vực, công việc của tổ chức.  Các khung năng lực cần bao hàm các năng lực hành vi cũng như năng lực chuyên môn (các kỹ năng). Sau khi được soạn thảo, cần có sự đánh giá và điều chỉnh khung năng lực dựa trên ý kiến đóng góp của các bên liên quan. Việc xây dựng thành công một hệ thống các khung năng lực thống nhất và đồng bộ đòi hỏi phải có ba hướng tích hợp: tích hợp theo chiều dọc (liên kết với chiến lược phát triển của tổ chức), tích hợp theo chiều ngang (các quá trình, các khâu quản lý nguồn nhân lực khác nhau) và thực hiện xuyên suốt trong toàn hệ thống. Để thực hiện quản lý theo vị trí việc làm và khung năng lực, các tổ chức cần xây dựng lộ trình thực hiện, gồm các bước như: Quyết định lồng ghép cách thức quản lý mới trong tổng thể công tác cán bộ; tổ chức, lập kế hoạch và truyền thông về sự đổi mới công tác quản lý; xác định năng lực và xây dựng khung năng lực cho các (nhóm) lĩnh vực quản lý nguồn nhân lực theo mục tiêu cụ thể đã đề ra; tích hợp năng lực vào các hoạt động, các khâu công tác cán bộ; rà soát, đánh giá, sơ tổng kết và cập nhật, điều chỉnh hệ thống quản lý nguồn nhân lực một cách thường xuyên. Thứ hai, hoàn thiện thể chế, pháp luật điều chỉnh chính thức và bảo đảm tính hệ thống giữa các nội dung quản lý CBCCVC. Luật và các văn bản quy phạm pháp luật là căn cứ pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ giữa bên sử dụng lao động và người lao động, chi phối các hoạt động của quản lý nguồn nhân lực, bao gồm tạo nguồn, tuyển dụng, sử dụng, trả lương, thực hiện chế độ đãi ngộ, khen thưởng cũng như đào tạo, phát triển nhân sự … Đối với CBCCVC trong cơ quan nhà nước, bên cạnh pháp luật lao động, các mối quan hệ này còn chịu sự chi phối, ràng buộc của các văn bản pháp luật khác như Luật Cán bộ công chức, Luật viên chức. Vì vậy, để áp dụng quản lý theo vị trí việc làm và khung năng lực, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC, thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài trong bối cảnh chuyển đổi số, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện khung khổ thể chế, pháp luật làm cơ sở đảm bảo thực hiện trên thực tế. Quản lý theo vị trí việc làm và khung năng lực đối với CBCCVC khó có thể đạt hiệu quả cao nếu thiếu sự thống nhất, đồng bộ với các nội dung quy định pháp luật về tổ chức bộ máy và công vụ, công chức. Phạm Đức Toàn (Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Bộ Nội vụ)   TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 31/7/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. 2. Trương Hải Long (2023), Xây dựng nền công vụ liên thông, thống nhất, chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài, NXB Chính trị Quốc gia sự thật, Hà nội. 3. Phạm Đức Toàn, Đào Thị Thanh Thủy (2016), Khung năng lực và quản lý công chức theo năng lực đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà nội, Hà nội. 4. Nguyễn Thị Hồng Hải, Phạm Đức Toàn (2019), “Giải pháp và điều kiện ứng dụng quản lý công chức theo năng lực đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 10/2019. 5. Phạm Đức Toàn (2019), “Kinh nghiệm quản lý nguồn nhân lực theo năng lực của một số nền công vụ trên thế giới”.  Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 2/2019.

Thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng tại Thanh Hóa

BTĐKT - Chiều 14/8, Đoàn Thanh tra của Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương đã công bố quyết định thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng tại tỉnh Thanh Hóa. Chủ trì buổi công bố, có các đồng chí: Đầu Thanh Tùng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Phó Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tỉnh Thanh Hóa; Phạm Đức Toàn, Phó Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương. Đồng chí Đỗ Ngọc Toàn, Trưởng phòng Phòng Pháp chế - Thanh tra, Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương, Trưởng đoàn Đoàn Thanh tra công bố quyết định thanh tra Cùng dự, có các đồng chí: Đỗ Ngọc Toàn, Trưởng phòng Phòng Pháp chế - Thanh tra, Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương, Trưởng đoàn và các thành viên Đoàn Thanh tra; Trần Quốc Huy, Giám đốc Sở Nội vụ, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Thi đua – Khen thưởng tỉnh Thanh Hóa; Lê Ngọc Khánh, Trưởng ban Ban Thi đua – Khen thưởng, Sở Nội vụ tỉnh; lãnh đạo Văn phòng UBND tỉnh, các sở, ngành, UBND cấp huyện, các đơn vị được kiểm tra.  Đồng chí Phạm Đức Toàn, Phó Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương phát biểu tại buổi công bố Phát biểu tại buổi công bố, đồng chí Phạm Đức Toàn, Phó Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương đề nghị các thành viên Đoàn Thanh tra thực hiện nghiêm Quy chế tổ chức, hoạt động đoàn và các quy định có liên quan; phối hợp chặt chẽ với các đơn vị được thanh tra để hoàn thành mục đích, yêu cầu nhiệm vụ theo đúng kế hoạch đã đề ra. Nếu có vướng mắc, vấn đề phát sinh cần chỉ đạo, đề nghị Đoàn kịp thời báo cáo lãnh đạo Ban. Đồng chí đề nghị UBND tỉnh, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tỉnh Thanh Hóa quan tâm chỉ đạo các đơn vị bố trí thành phần dự họp, chuẩn bị báo cáo, hồ sơ tài liệu, địa điểm, thực hiện theo lịch làm việc đã thống nhất, đảm bảo chất lượng, tiến độ theo quy định. Đồng chí Đầu Thanh Tùng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Phó Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tỉnh Thanh Hóa phát biểu tại buổi công bố Phát biểu tại buổi công bố, đồng chí Đầu Thanh Tùng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Phó Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tỉnh Thanh Hóa thống nhất mục đích, nội dung, yêu cầu thanh tra, mong muốn Đoàn chỉ ra những ưu điểm để phát huy, những tồn tại để đề ra những giải pháp điều chỉnh, khắc phục trong công tác thi đua, khen thưởng thời gian tới. Bên cạnh đó, đồng chí Đầu Thanh Tùng cũng đề nghị Ban Thi đua - Khen thưởng, Sở Nội vụ tỉnh làm đầu mối phối hợp, đôn đốc các đơn vị chuẩn bị các nội dung, điều kiện để Đoàn Thanh tra hoàn thành nhiệm vụ theo đúng quy định và lịch làm việc đã thống nhất. Theo báo cáo của UBND tỉnh Thanh Hóa, thực hiện Luật Thi đua, khen thưởng và các văn bản, hướng dẫn của trung ương, UBND tỉnh đã ban hành các văn bản và chỉ đạo các ngành, đơn vị, địa phương bám sát nội dung, xây dựng kế hoạch, nhằm cụ thể hóa các chính sách, quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh. Thông qua công tác triển khai thực hiện, việc chấp hành các quy định của pháp luật về công tác thi đua, khen thưởng đã tạo được sự chuyển tích cực trong nhận thức của cấp ủy, chính quyền, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động đối với thực hiện công tác thi đua, khen thưởng. Các phong trào thi đua yêu nước đã được triển khai phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương. Nội dung thi đua được gắn với nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chuyên môn của từng cơ quan, đơn vị. Hình thức tổ chức phát động phong phú, đã động viên và thu hút được đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân hưởng ứng, tham gia và đạt kết quả tích cực trên các lĩnh vực. Đã có nhiều tập thể, cá nhân đạt thành tích xuất sắc trong công tác và phong trào thi đua được các cấp khen thưởng. Việc tổ chức bình xét khen thưởng được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện đúng quy định. Chất lượng khen thưởng từng bước được nâng cao, nhiều nơi đã quan tâm khen thưởng hoặc đề nghị cấp trên khen thưởng các đối tượng là người trực tiếp lao động, sản xuất. Công tác thanh tra, kiểm tra, theo dõi, nắm tình hình thực hiện công tác thi đua, khen thưởng được các cấp, các ngành quan tâm… Hồ sơ khen thưởng cấp tỉnh, cấp Nhà nước được quản lý theo quy định của pháp luật về lưu trữ. Hoạt động các cụm thi đua của tỉnh ngày càng đi vào thực chất, theo hướng thiết thực, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn. Nguyệt Hà

Thủ tướng: Thi đua-khen thưởng cần bám sát các đột phá, những việc khó khăn, phức tạp

Thủ tướng nhấn mạnh, chúng ta cần coi trọng hơn nữa, nâng tầm hơn nữa công tác thi đua-khen thưởng, nhất là bám sát các đột phá, những việc khó khăn, phức tạp, những khâu yếu, những vấn đề bức xúc... để hình thành xu thế, thúc đẩy phong trào thi đua, tạo động lực, truyền cảm hứng, huy động sự tham gia của toàn dân, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, góp phần phát huy sức mạnh toàn dân tộc, thực hiện thành công các mục tiêu Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra. Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, thi đua-khen thưởng cần bám sát các đột phá, những việc khó khăn, phức tạp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc Sáng 10/8, Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Hội đồng Thi đua-Khen thưởng Trung ương, chủ trì phiên họp lần thứ 6 nhiệm kỳ 2021-2026 của Hội đồng. Tham dự phiên họp có Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân, Phó Chủ tịch thứ Nhất Hội đồng; Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng; Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Nguyễn Đình Khang, Phó Chủ tịch Hội đồng; các thành viên Hội đồng, lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương. Theo chương trình, phiên họp tiến hành đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác những tháng đầu năm, nhiệm vụ trọng tâm những tháng cuối năm 2023 và xem xét, cho ý kiến về đề nghị phong tặng một số danh hiệu khen thưởng. Tạo động lực, truyền cảm hứng cho người dân và hệ thống chính trị Các báo cáo, ý kiến tại phiên họp thống nhất đánh giá, trong 7 tháng năm nay, nhờ sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp dưới sự lãnh đạo của Đảng, với nỗ lực triển khai quyết liệt, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm các nhiệm vụ, giải pháp đề ra, sự hỗ trợ của bạn bè, đối tác quốc tế, nhìn chung, đất nước ta cơ bản đạt được các mục tiêu đề ra theo kết luận của Trung ương, nghị quyết của Quốc hội và chỉ đạo, điều hành của Chính phủ. Theo đó, kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được thúc đẩy, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân được cải thiện; chính trị-xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; đối ngoại là điểm sáng, hội nhập quốc tế được đẩy mạnh; môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển đất nước được giữ vững; niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước được củng cố, tăng cường. Những thành tựu, kết quả đạt được có sự đóng góp tích cực của các phong trào thi đua và công tác khen thưởng trong cả nước. Phong trào thi đua và công tác khen thưởng đã bám sát yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước, yêu cầu của cuộc sống, lấy nhân dân làm trung tâm, làm chủ thể để đưa phong trào đi vào cuộc sống; bám sát các đột phá, những việc khó khăn, phức tạp, những khâu yếu, những vấn đề bức xúc… để phát động và triển khai thi đua, hình thành xu thế, thúc đẩy phong trào, tạo động lực, truyền cảm hứng cho người dân và hệ thống chính trị; kịp thời động viên cách làm hay, đổi mới sáng tạo, chú trọng phòng chống tham nhũng, tiêu cực, những biểu hiện lệch lạc, chống hình thức để công tác thi đua-khen thưởng thực chất, hiệu quả. Thủ tướng yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng thi đua-khen thưởng các cấp, các ngành - Ảnh: VGP/Nhật Bắc Hội đồng, Thường trực Hội đồng Thi đua-Khen thưởng Trung ương tiếp tục đổi mới hoạt động, phát huy vai trò, tích cực triển khai các hoạt động và hoàn thành tốt các nội dung, nhiệm vụ đã đề ra. Hội đồng, Thường trực Hội đồng đôn đốc các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương và các địa phương phát động, tổ chức triển khai các phong trào thi đua để thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị được giao ngay từ đầu năm; phấn đấu hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội năm 2023 và kế hoạch 5 năm (2021-2025). Cùng với đó, tham mưu, đề xuất triển khai tích cực, hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm, trong đó triển khai Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 (tuyên truyền; xây dựng 10 nghị định quy định chi tiết thi hành; rà soát, sửa đổi các quy định có liên quan; tổ chức thực hiện…); tổ chức thực hiện các hoạt động kỷ niệm 75 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc; Hội nghị biểu dương, tôn vinh điển hình tiên tiến toàn quốc năm 2023 với nhiều hoạt động sôi nổi, thiết thực, tạo được hiệu ứng tích cực trong xã hội. Công tác thi đua, khen thưởng tiếp tục được các bộ, ban, ngành, địa phương quan tâm chỉ đạo, có trọng tâm, trọng điểm và tổ chức thực hiện đồng bộ, bài bản, hiệu quả. Phong trào "Cả nước thi đua xây dựng xã hội học tập, đẩy mạnh học tập suốt đời giai đoạn 2023-2030" nâng cao nhận thức và hành động về xây dựng xã hội học tập, thúc đẩy việc học tập suốt đời cho mọi người dân. Phong trào thi đua "Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí" được hưởng ứng, ủng hộ, triển khai, 100% bộ, ban, ngành, đoàn thể trung ương, các tỉnh, thành phố đã ban hành kế hoạch, tổ chức triển khai. Các bộ, ban, ngành, địa phương đã tổ chức phát động và triển khai các phong trào thi đua một cách phong phú, sôi nổi, thiết thực, hướng vào việc thực hiện các nhiệm vụ khó, trọng tâm, cấp bách để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2023. Xuất hiện nhiều phong trào thi đua điển hình như phong trào "Thi đua quyết thắng", "Đoàn kết, mẫu mực, kỷ cương, linh hoạt, sáng tạo, quyết thắng" của Bộ Quốc phòng; "Vì an ninh Tổ quốc", "Xây dựng phong cách người công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ" của Bộ Công an; "Kỷ cương, trách nhiệm, đoàn kết, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao" của Bộ Tư pháp; "Đoàn kết, kỷ cương, gương mẫu, đổi mới, sáng tạo, hiệu quả" của Bộ Nội vụ; phong trào thi đua "Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh" của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; "Lao động giỏi, lao động sáng tạo" của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; "Thực hiện Chính quyền số, Chuyển đổi số trên địa bàn Thành phố" của TP Hồ Chí Minh; thi đua "Sáng kiến, sáng tạo Thủ đô", "Cải cách hành chính" của TP Hà Nội… Công tác tôn vinh điển hình tiên tiến, công tác khen thưởng đảm bảo kịp thời phục vụ các nhiệm vụ chính trị của đất nước; việc khen thưởng các trường hợp có thành tích đột xuất, khen thưởng người trực tiếp lao động, sản xuất và công tác, khen thưởng cho tập thể, cá nhân có thành tích tiêu biểu được thực hiện kịp thời (Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ đã có trên 1.000 quyết định khen thưởng cho trên các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc...). Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân, Phó Chủ tịch thứ Nhất Hội đồng Thi đua-Khen thưởng Trung ương phát biểu tại phiên họp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc Lấy người dân làm trung tâm, làm chủ thể Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính cơ bản đồng tình với các báo cáo, ý kiến tại Hội nghị. Thay mặt Hội đồng, Thủ tướng đánh giá cao tinh thần, trách nhiệm và đóng góp tích cực của các đồng chí thành viên Hội đồng; biểu dương các bộ, ban, ngành, tổ chức đoàn thể đã hưởng ứng, phát động, triển khai thiết thực, hiệu quả các phong trào thi đua; đánh giá cao những kết quả mà phong trào thi đua yêu nước và công tác thi đua, khen thưởng đã đạt được trong thời gian qua, đã có đóng góp quan trọng vào triển khai thành công các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Thủ tướng nêu rõ, công tác thi đua, khen thưởng còn bộc lộ một số hạn chế. Nhận thức về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của công tác thi đua-khen thưởng có nơi, có lúc còn chưa đúng tầm; trong triển khai các nhiệm vụ cụ thể, có nơi, có lúc còn chậm, lơ là, làm chưa đúng. Công tác đánh giá, tổng kết các phong trào thi đua, đề xuất khen thưởng ở một số nơi chưa được chú trọng; công tác tuyên truyền, nhân rộng các điển hình tiên tiến ở một số nơi còn hạn chế. Trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế trong công tác thi đua, khen thưởng những tháng đầu năm 2023, Thủ tướng chỉ ra một số bài học kinh nghiệm. Theo đó, tiếp tục thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Càng khó khăn thì càng phải thi đua" để huy động được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nỗ lực phấn đấu hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội năm 2023. Cần bám sát sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, căn cứ tình hình thực tiễn để tổ chức các phong trào thi đua phù hợp với từng ngành, lĩnh vực, địa phương, đảm bảo có trọng tâm, trọng điểm, khả thi, thiết thực, hiệu quả, tránh bệnh hình thức. Lấy người dân làm trung tâm, làm chủ thể; phong trào thi đua phải hướng tới người dân và người dân tích cực tham gia phong trào thi đua; gắn kết chặt chẽ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, giữa lợi ích quốc gia dân tộc và lợi ích của mỗi người. Tiếp tục hoàn thiện thế, cơ chế, chính sách về thi đua, khen thưởng tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ nhằm thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước góp phần phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc, đánh giá. Thời gian tới, Thủ tướng nêu rõ, dự báo tình hình trong nước và quốc tế tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, phức tạp, khó lường. Nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề, cần sự chung sức, đồng lòng và vào cuộc quyết liệt, hiệu quả của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Để góp phần thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đó cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó có phát huy vai trò quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng. Thủ tướng nhấn mạnh, chúng ta cần coi trọng hơn nữa, nâng tầm hơn nữa công tác thi đua-khen thưởng theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất"; từ đó, khuyến khích, động viên, tạo động lực, truyền cảm hứng cho toàn dân, cả hệ thống chính trị để góp phần phát huy sức mạnh toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh bên trong và bên ngoài, kế thừa, phát huy những thành tựu, kết quả đã đạt được, khắc phục, hóa giải những khó khăn, tồn tại, yếu kém, góp phần thực hiện các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra. Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Nguyễn Đình Khang phát biểu tại phiên họp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc Triển khai phong trào xóa nhà tạm, nhà dột nát cho nhân dân Về một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, Thủ tướng yêu cầu tiếp tục bám sát các mục tiêu, chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế-xã hội của đất nước để triển khai đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả các nhiệm vụ thi đua, khen thưởng; khuyến khích tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Tiếp tục triển khai tích cực các phong trào thi đua, nhất là các phong trào thi đua như "Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí", phong trào "Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới", phong trào thi đua "Vì người nghèo-Không để ai bị bỏ lại phía sau", phong trào "Cả nước thi đua xây dựng xã hội học tập, đẩy mạnh học tập suốt đời giai đoạn 2023-2030". Cũng tại phiên họp, Hội đồng thống nhất xây dựng kế hoạch, triển khai phong trào xóa nhà tạm, nhà dột nát cho nhân dân từ nay tới năm 2025, bố trí nguồn lực phù hợp trên cơ sở kết hợp các nguồn lực của Nhà nước, người dân và xã hội, lồng ghép với việc triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia. Đồng thời, Hội đồng khuyến khích các bộ, ngành, địa phương phát động, triển khai các phong trào thi đua theo chuyên đề, gắn với nhiệm vụ chính trị của từng nơi. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền thi đua khen thưởng, phát hiện, bồi dưỡng và nhân rộng các điển hình tiên tiến. Thực hiện Đề án "Tuyên truyền gương điển hình tiên tiến" giai đoạn 2022-2025; tuyên truyền, nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến, gương "Người tốt, việc tốt". Hết sức chú trọng công tác tuyên truyền trên không gian mạng. Thực hiện có hiệu quả chương trình phối hợp giữa cơ quan làm công tác thi đua, khen thưởng với các cơ quan thông tin, truyền thông trong phát hiện, tuyên truyền các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phòng chống tham nhũng, tiêu cực; những tấm gương có thành tích xuất sắc trong công tác, lao động, học tập, các tập thể, cá nhân Anh hùng Lao động, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH Đào Ngọc Dung phát biểu tại phiên họp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc Đẩy mạnh công tác tuyên truyền tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng; Chỉ thị số 34-CT/TW của Bộ Chính trị "về tiếp tục đổi mới công tác thi đua khen thưởng"; Chỉ thị số 05- CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị "về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh"; các phong trào thi đua yêu nước; kỷ niệm các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước. Tiếp tục nghiên cứu, tham mưu đề xuất hoàn thiện thể chế, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng. Chuẩn bị kỹ lưỡng, trình Chính phủ ban hành 10 nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thi đua, khen thưởng, bảo đảm tiến độ, chất lượng; tinh thần là cần khắc phục được tối đa các hạn chế, bất cập của các quy định hiện hành, khả thi trong áp dụng thực tiễn, theo hướng tăng cường phân cấp, phân quyền, giảm thủ tục hành chính. Phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong việc phát hiện, biểu dương, khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, đột xuất, cá nhân dũng cảm cứu người, cứu tài sản,... Chú trọng khen thưởng cho công nhân, nông dân, người lao động trực tiếp, nhà khoa học, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, đội ngũ giáo viên, y bác sĩ... Quan tâm khen thưởng tập thể, cá nhân ở cơ sở, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ tiêu biểu, người yếu thế có ý chí tự lực, tự cường vươn lên. Chủ động đề xuất khen thưởng các doanh nghiệp, doanh nhân đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, làm tốt công tác giải quyết công ăn việc làm, tạo sinh kế cho người lao động, người dân, tham gia tích cực vào hoạt động từ thiện, an sinh xã hội; các tập thể, cá nhân người Việt Nam ở nước ngoài, bạn bè quốc tế có nhiều đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thủ tướng yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng thi đua-khen thưởng các cấp, các ngành; phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của các thành viên Hội đồng trong việc tham mưu và tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc, thực hiện công tác khen thưởng bảo đảm đúng quy định, kịp thời, công khai, minh bạch, tránh hình thức, phô trương, tránh tiêu cực. Theo baochinhphu.vn

Cụm thi đua các tỉnh đồng bằng sông Hồng sơ kết 6 tháng đầu năm 2023

BTĐKT - Ngày 26/7, tại thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Cụm thi đua các tỉnh đồng bằng sông Hồng tổ chức sơ kết công tác thi đua, khen thưởng 6 tháng đầu năm, triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2023. Dự hội nghị có đại diện Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương; đồng chí Lại Văn Hoàn, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (đơn vị Cụm trưởng); đồng chí Trần Xuân Dưỡng, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam (đơn vị Cụm phó); đồng chí Hà Lan Anh, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định (đơn vị Cụm phó) và Giám đốc, Phó Giám đốc, Trưởng ban, Trưởng phòng Phòng Thi đua, khen thưởng, Sở Nội vụ của 9 tỉnh đồng bằng sông Hồng. Quang cảnh hội nghị Hội nghị thông qua kết quả sơ kết phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của 9 tỉnh trong Cụm và các phong trào thi đua do Thủ tướng Chính phủ phát động. Để thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra, các tỉnh trong Cụm đã tổ chức triển khai đồng bộ nhiều biện pháp để thúc đẩy nền kinh tế, trong đó tăng cường giải ngân vốn đầu tư công, phát triển kết cấu hạ tầng, đối thoại với doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp và hợp tác xã trong nước, công nhân và người lao động. Thường xuyên trực tiếp thị sát, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai xây dựng các công trình trọng điểm và làm việc với các sở, ngành, địa phương để kịp thời tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Kết quả là, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) của các tỉnh trong Cụm đạt mức độ khả quan so với cùng kỳ năm 2022: Hải Dương tăng 11,4%; Quảng Ninh tăng 8,8%; Nam Định tăng 8,5%; Hưng Yên tăng 8,21%; Thái Bình tăng 7,77%; Ninh Bình tăng 7,56%; Hà Nam tăng 6,2%; Vĩnh Phúc tăng 1,69%. Tỉnh Bắc Ninh giảm 12,59%.  Chỉ số sản xuất công nghiệp của các tỉnh trong Cụm nhìn chung có mức tăng so với cùng kỳ năm trước, cụ thể: Vĩnh Phúc tăng 34,3%; Nam Định tăng 13,3%; Hà Nam tăng 12,1%; Thái Bình tăng 9,4%; Hải Dương tăng 8,9%; Quảng Ninh tăng 8,63%; Hưng Yên tăng 6,16%; Ninh Bình tăng 5,8%. Tỉnh Bắc Ninh giảm 18,4%. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng so với kế hoạch đề ra. Các ngành dịch vụ đã tập trung đảm bảo cung cấp hàng hóa và ổn định giá cả trên thị trường. Các hoạt động vận tải, bưu chính viễn thông, cấp nước sạch, điện lực tiếp tục phát triển, đáp ứng được yêu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Hoạt động xúc tiến thương mại được đẩy mạnh, thực hiện tốt công tác quản lý, cập nhật thông tin. Ngành du lịch có sự thay đổi mạnh mẽ hơn so với thời gian chịu ảnh hưởng nặng nề dịch bệnh Covid-19, lượng khách đã tăng nhanh. Công tác đảm bảo an sinh xã hội, lao động, việc làm, giảm nghèo được các tỉnh trong Cụm triển khai đồng bộ. Các phong trào thi đua do Thủ tướng Chính phủ phát động được các tỉnh triển khai mạnh mẽ, đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Song song với đó, các tỉnh đã triển khai các phong trào thi đua của riêng mình như tỉnh Thái Bình với phong trào thi đua "Trách nhiệm, kỷ cương, tăng cường cải cách, tận dụng cơ hội, bứt phá đi lên", "Tăng cường thu hút đầu tư vào các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Bình"; tỉnh Nam Định với phong trào thi đua “Đoàn kết, vượt khó - Chủ động thích ứng - Điều hành linh hoạt - Đổi mới, sáng tạo - Kịp thời, hiệu quả”; tỉnh Quảng Ninh với phong trào thi đua “Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư và chất lượng đời sống nhân dân”; tỉnh Hà Nam ban hành Chỉ thị 03/CT-UBND ngày 31 tháng 3 năm 2023 phát động thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2023, chào mừng kỷ niệm 75 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948 - 11/6/2023)… Các phong trào thi đua đã được các tỉnh trong Cụm triển khai và nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của các cơ quan, đơn vị, địa phương, doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hội nghị cũng đã đề ra những phương hướng, nhiệm vụ cho 6 tháng cuối năm nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2023. Giao lưu với các điển hình tiên tiến tại Hội nghị Tại hội nghị sơ kết lần này với sáng kiến của tỉnh Thái Bình (Cụm trưởng), tỉnh Hà Nam (Cụm phó) và tỉnh Nam Định (Cụm phó), đã có sự đổi mới trong hoạt động, các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình và Hải Dương lựa chọn 1 điển hình của tỉnh đã về đích đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu về báo cáo, trao đổi trực tiếp trước diễn đàn hội nghị (Xã Vũ Bản, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; xã Khánh Cường, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình và xã Bạch Đằng, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương). Mỗi một xã đều có những giải pháp riêng, phù hợp với đặc điểm của địa phương để xây dựng nông thôn mới. Qua trao đổi trực tiếp giữa 3 đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, tất cả đều thống nhất quan điểm, muốn thực hiện thành công Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn II, cụ thể là thực hiện phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, cần phải làm tốt các công tác sau: Một là, phải tăng cường tuyên truyền chính sách của Đảng, Nhà nước về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn II và phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, để nhân dân và cả hệ thống chính trị, xã hội hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng, tự xác định được quyền lợi và nghĩa vụ của mình để ra sức thi đua, phấn đấu thực hiện thành công các mục tiêu, tiêu chí đã đề ra. Hai là, người lãnh đạo, công chức, viên chức và đảng viên phải luôn luôn tiền phong gương mẫu, đi trước dẫn dắt phong trào, công khai, minh bạch các khoản thu chi về tài chính ngân sách, các khoản đóng góp xã hội hóa, tạo được sự tin tưởng trong nhân dân. Ba là, lựa chọn các giải pháp khả thi, phù hợp với địa phương mình, ưu tiên thực hiện trước các chỉ tiêu, tiêu chí với chi phí thấp, dễ hoàn thành, tạo đà cho việc  có thời gian chuẩn bị về tài lực, nhân lực và vật lực để thực hiện các chỉ tiêu, tiêu chí cao hơn, khó thực hiện hơn với phương châm làm đến đâu, chắc đến đó, không để dây dưa, tồn đọng. Việc trao đổi kinh nghiệm thành công của các xã trong việc về đích xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu là cơ sở để 9 tỉnh học tập, rút kinh nghiệm và chỉ đạo triển khai. Trong một thời gian không xa, với việc thực hiện phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, 9 tỉnh trong Cụm thi đua các tỉnh đồng bằng sông Hồng sẽ thực hiện thành công Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn II, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện, nâng cao, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới, văn minh, xanh - sạch - đẹp. Phùng Thị  

Cụm các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc: Thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các phong trào thi đua

BTĐKT - Ngày 28/7, tại tỉnh Tuyên Quang, Cụm thi đua các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc (Cụm thi đua) tổ chức Hội nghị sơ kết công tác thi đua, khen thưởng 6 tháng đầu năm, triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm. Hội nghị sơ kết công tác thi đua, khen thưởng 6 tháng đầu năm, triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm Cụm thi đua các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc Chủ trì hội nghị có các đồng chí: Phạm Đức Toàn, Ủy viên Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Phó Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương; Phạm Duy Hưng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Kạn, Cụm trưởng Cụm thi đua; Hoàng Việt Phương, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Tuyên Quang, Cụm phó Cụm thi đua. Cùng dự hội nghị có lãnh đạo UBND các tỉnh: Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Giang, Hòa Bình, đại diện Văn phòng UBND tỉnh, Sở Nội vụ, Ban Thi đua - Khen thưởng 7 tỉnh trung du và miền núi phía Bắc. Theo báo cáo tại hội nghị, trong 6 tháng đầu năm 2023, với quyết tâm chính trị cao, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong Cụm thi đua đã phát huy nội lực, tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, phấn đấu thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đề ra, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh trên địa bàn từng tỉnh. Công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng, gương người tốt, việc tốt, gương điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực được quan tâm đẩy mạnh. UBND các tỉnh đã tổ chức nhiều hoạt động chào mừng, tôn vinh các điển hình tiên tiến nhân dịp kỷ niệm 75 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc - Ngày truyền thống thi đua yêu nước (11/6/1948 - 11/6/2023). Các cụm, khối thi đua, cơ quan, đơn vị tại mỗi tỉnh đều tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua theo đợt, chuyên đề, thi đua lập thành tích chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước, của tỉnh, của đơn vị, tạo được sức lan tỏa sâu rộng và có sức khuyến khích, động viên lớn, mang lại hiệu quả, hiệu suất cao trong thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và địa phương. Các đơn vị đã thực hiện tốt việc đăng ký chỉ tiêu thi đua, tổ chức ký kết giao ước thi đua, bám sát nội dung phát động thi đua của tỉnh gắn với nhiệm vụ chính trị cụ thể để tổ chức triển khai thực hiện. Chất lượng công tác khen thưởng dần được nâng cao, bám sát các tiêu chuẩn quy định của Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành, việc bình xét, suy tôn đề nghị các hình thức khen thưởng đảm bảo đúng quy trình, chính xác, công khai, khách quan. Công tác khen thưởng, đặc biệt là khen thưởng cho người lao động, người trực tiếp làm chuyên môn nghiệp vụ được chú trọng hơn. Hội đồng và cơ quan thường trực Hội đồng Thi đua - Khen thưởng các tỉnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động trong tham mưu đề xuất và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ công tác. Đồng chí Phạm Đức Toàn, Ủy viên Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Phó Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương phát biểu tại hội nghị Phát biểu tại hội nghị, đồng chí Phạm Đức Toàn, Ủy viên Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Phó Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương nhiệt liệt chúc mừng những thành tích mà Cụm thi đua đã đạt được trong thời gian qua. Thống nhất với phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp đã nêu trong báo cáo sơ kết tại hội nghị, để phong trào thi đua yêu nước tiếp tục thực sự trở thành động lực mạnh mẽ trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng chí Phạm Đức Toàn đề nghị các tỉnh trong Cụm thi đua tiếp tục quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt một số nội dung sau: Trước hết, các tỉnh cần cập nhật quá trình hoàn thiện các nghị định, thông tư hướng dẫn các quy định của Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 để chủ động xây dựng Quy chế Thi đua, khen thưởng của tỉnh và hệ thống các văn bản triển khai thực hiện, đảm bảo kịp thời và đồng bộ. Tiếp tục triển khai thực hiện tốt các phong trào thi đua do Thủ tướng Chính phủ phát động, gắn với việc thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Trong đó, chú trọng tổ chức sơ kết hai phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” và phong trào “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” giai đoạn 2021 - 2025 bằng những hình thức phù hợp. Tích cực giao lưu, trao đổi, học tập kinh nghiệm triển khai các phong trào thi đua nhằm phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, liên kết và phát triển giữa các tỉnh trong Cụm thi đua. Tăng cường phổ biến, chia sẻ các mô hình mới, cách làm sáng tạo, các điển hình tiên tiến giữa các tỉnh trong Cụm thi đua và với Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương để nhân rộng, phát huy tác dụng của các phong trào thi đua, của các gương điển hình tiên tiến.      Các đại biểu giao lưu với các gương điển hình tiên tiến Đồng chí Phạm Đức Toàn cũng đề nghị các tỉnh trong Cụm thi đua nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng các cấp, chất lượng công tác tham mưu của cơ quan chuyên trách làm công tác thi đua, khen thưởng. Tiếp tục quan tâm nâng cao chất lượng công tác khen thưởng, đảm bảo chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch, đúng quy định, thực sự có tác dụng giáo dục, nêu gương. Quan tâm việc khen thưởng thông qua phát hiện các điển hình, nhân tố mới, khen thưởng tập thể ở cơ sở, vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, khen thưởng người trực tiếp lao động, sản xuất, công tác, chiến đấu theo nguyên tắc thành tích đến đâu khen thưởng đến đó. Cùng với đó, tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Đề án “Tuyên truyền gương điển hình tiên tiến” theo Quyết định số 1526/QĐ-TTg ngày 09/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ, đẩy mạnh công tác truyền thông, tuyên truyền với nhiều hình thức đa dạng, phù hợp. Tăng cường công tác tập huấn, đặc biệt trong việc triển khai các quy định mới của Luật Thi đua, khen thưởng (năm 2022) và các văn bản quy định chi tiết. Hồng Long

Kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng tại TP Đà Nẵng

BTĐKT - Từ ngày 27 - 28/6, Đoàn Kiểm tra của Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương do đồng chí Phạm Đức Toàn, Phó Trưởng ban làm Trưởng đoàn đã kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng tại TP Đà Nẵng. Đoàn Kiểm tra làm việc với Sở Nội vụ TP Đà Nẵng Đoàn đã làm việc tại UBND quận Thanh Khê, Sở Nội vụ thành phố và UBND quận Ngũ Hành Sơn. Đồng chí Võ Ngọc Đồng, Giám đốc Sở Nội vụ, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Thi đua - Khen thưởng TP Đà Nẵng phát biểu tại buổi làm việc với Đoàn Kiểm tra Đồng chí Võ Ngọc Đồng, Giám đốc Sở Nội vụ, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Thi đua - Khen thưởng TP Đà Nẵng tiếp và làm việc với Đoàn tại Sở Nội vụ thành phố. Đoàn chụp ảnh lưu niệm cùng Ban Thi đua - Khen thưởng, Sở Nội vụ thành phố tại Trung tâm hành chính công Theo báo cáo của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng TP Đà Nẵng, thực hiện Luật Thi đua, khen thưởng và các văn bản, hướng dẫn của trung ương về công tác thi đua, khen thưởng, UBND thành phố và các cấp đã tập trung ban hành các chính sách, quy định về công tác thi đua, khen thưởng khá đầy đủ, làm cơ sở để công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn thành phố được triển khai thống nhất, chặt chẽ, có tính khả thi cao, khá phù hợp với tình hình thực tế. Qua đó, tạo được sự chuyển tích cực trong nhận thức của cấp ủy, chính quyền, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động đối với thực hiện công tác thi đua, khen thưởng. Đoàn Kiểm tra làm việc tại quận Thanh Khê Các phong trào thi đua đã được triển khai phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương; nội dung thi đua được gắn với nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chuyên môn của từng cơ quan, đơn vị; hình thức tổ chức phát động phong phú, đã động viên và thu hút được đông đảo cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân hưởng ứng, tham gia và đạt kết quả tích cực trên các lĩnh vực. Đã có nhiều tập thể, cá nhân đạt thành tích xuất sắc trong công tác và phong trào thi đua được các cấp khen thưởng. Việc tổ chức bình xét khen thưởng dần được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện đúng quy định; chất lượng khen thưởng từng bước được nâng cao, nhiều nơi đã quan tâm khen thưởng hoặc đề nghị cấp trên khen thưởng các đối tượng là người trực tiếp lao động, sản xuất. Công tác thanh tra, kiểm tra, theo dõi, nắm tình hình thực hiện công tác thi đua, khen thưởng được các cấp, các ngành quan tâm. Hoạt động của các cụm, khối thi đua của thành phố ngày càng đi vào thực chất, thường xuyên được rà soát, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. Đoàn Kiểm tra làm việc tại quận Ngũ Hành Sơn Phát biểu tại các buổi làm việc, Đoàn Kiểm tra đánh giá cao công tác chuẩn bị nội dung, báo cáo của các đơn vị được kiểm tra, công tác lưu trữ hồ sơ, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi đua, khen thưởng. Đoàn ghi nhận những kết quả đạt được, cùng các đơn vị làm rõ nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc để đề ra những giải pháp tháo gỡ, bao gồm công tác hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật, các quy chế, quy định cũng như công tác tổ chức thực hiện các văn bản, quy định đã ban hành, chú trọng công tác sơ kết, tổng kết, đánh giá các phong trào thi đua, nâng cao chất lượng công tác khen thưởng, kịp thời phát hiện, biểu dương, nhân rộng, phát huy tác dụng của các gương điển hình tiên tiến… Phương Thanh

Thừa Thiên Huế: Các chương trình giảm nghèo được triển khai đồng bộ

BTĐKT - Từ ngày 26 - 27/6, Đoàn Giám sát của Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương do đồng chí Phạm Đức Toàn, Phó Trưởng ban làm Trưởng đoàn đã giám sát việc triển khai thực hiện phong trào thi đua “Vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau” giai đoạn 2021 - 2025 tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Đoàn Giám sát làm việc tại Sở Nội vụ tỉnh Thừa Thiên Huế Đoàn đã làm việc tại Sở Nội vụ tỉnh; UBND xã Phong Bình, huyện Phong Điền; UBND xã Vinh Hưng, huyện Phú Lộc; thăm 2 mô hình tiêu biểu trong thực hiện phong trào thi đua “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” giai đoạn 2021 - 2025 tại 2 địa phương trên. Đoàn Giám sát làm việc tại xã Phong Bình, huyện Phong Điền Đoàn đến thăm nhà, trò chuyện về quá trình vượt lên hoàn cảnh của bà Lê Thị Mỹ Khánh, thôn Đông Phú, xã Phong Bình Đoàn đã tới thăm hộ gia đình bà Lê Thị Mỹ Khánh, thôn Đông Phú, xã Phong Bình, huyện Phong Điền, là tấm gương người khuyết tật vượt qua mặc cảm, vượt lên số phận, thoát nghèo. Nhờ tiếp cận vốn vay chính sách, bà Khánh đã mở cửa hàng ăn uống, sau 3 năm đã trả hết tiền vay, thu nhập ổn định 6 triệu đồng/tháng. Đoàn Giám sát làm việc tại UBND xã Vinh Hưng Đoàn nghe đồng chí Chủ tịch UBND xã Vinh Hưng trao đổi, giới thiệu mô hình một cửa, ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số, tăng cường tương tác, nâng cao khả năng tiếp cận, tạo thuận lợi tối đa cho người dân, cá nhân, tổ chức Đoàn cũng thăm hộ gia đình bà Nguyễn Thị Mai, cư trú tại thôn Phùng Chánh 1, xã Vinh Hưng, huyện Phú Lộc. Chồng mất sớm, một mình nuôi hai con, với sự hỗ trợ của Hội Liên hiệp Phụ nữ, bà Mai được tiếp cận nguồn vay Ngân hàng Chính sách xã hội và vay mượn người thân, xây được nhà kiên cố, làm may mặc, vươn lên thoát nghèo. Đoàn thăm hộ gia đình bà Nguyễn Thị Mai Tại các buổi làm việc, bên cạnh việc giám sát theo yêu cầu kế hoạch đề ra, các thành viên trong Đoàn Giám sát đã dành thời gian trao đổi nghiệp vụ công tác thi đua, khen thưởng, chia sẻ mô hình hay, cách làm sáng tạo, kinh nghiệm triển khai phong trào của một số địa phương khác. Đoàn cũng đề nghị các đơn vị được giám sát tiếp tục quan tâm đẩy mạnh công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức đa dạng, sát thực; tăng cường tương tác, tạo thuận lợi cho người dân, tổ chức trong thi đua, khen thưởng; nâng cao nhận thức, xóa bỏ tư tưởng trông chờ, ỷ lại, vươn lên thoát nghèo; phát huy vai trò của các cấp, các ngành, đoàn thể và cộng đồng xã hội trong việc vận động, triển khai phong trào; kịp thời phát hiện, tôn vinh, khen thưởng và đề nghị khen thưởng những gương điển hình, những tập thể, cá nhân có thành tích, nhằm lan tỏa và phát huy tác dụng của các điển hình.   Theo báo cáo của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tỉnh Thừa Thiên Huế, thời gian qua, phong trào thi đua “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” đã trở thành phong trào sôi nổi, sâu rộng từ tỉnh tới cơ sở; được các cấp, các ngành quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, tạo chuyển biến rõ nét trong nhận thức, hành động. Các chương trình giảm nghèo được triển khai đồng bộ,  người nghèo được tiếp cận nhiều chính sách trợ giúp. Các dự án giảm nghèo đã bổ sung nguồn lực cho các đối tượng thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo thực hiện kế hoạch sản xuất, phát triển kinh tế. Các mô hình kinh tế dành cho hộ nghèo, cận nghèo cũng được triển khai có kết quả.   Phong trào thi đua “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” đã được tỉnh cụ thể hóa thành các phong trào cụ thể, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội, sự vào cuộc của hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp. Tiêu biểu, phong trào “Dòng họ, làng, bản không có hộ nghèo” ra đời đã phát huy được vai trò, trách nhiệm các dòng họ, dòng tộc, làng, bản, đặc biệt là vai trò của trưởng họ, trưởng tộc, già làng, trưởng thôn, trưởng bản, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số. Từ cách làm trên, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn toàn tỉnh giảm từ 4,93% cuối năm 2021 xuống còn 3,56% vào cuối năm 2022 vượt 1,37% so với chỉ tiêu đặt ra. Năm 2023, Thừa Thiên Huế phấn đấu tỷ lệ hộ nghèo chung toàn tỉnh giảm còn 2,79%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số giảm từ 3% trở lên, tỷ lệ hộ nghèo tại các xã có tỷ lệ hộ nghèo cao trên 25% giảm từ 4% trở lên.  Phương Thanh

Thanh tra việc thực hiện quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng tại Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp

BTĐKT - Sáng 14/6, Đoàn Thanh tra của Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương đã công bố Quyết định thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng năm 2021 - 2022 tại Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Đồng chí Phạm Đức Toàn, Phó Trưởng ban Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương; đồng chí Hồ Sỹ Hùng, Phó Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Phó Chủ tịch Thứ nhất Hội đồng Thi đua – Khen thưởng Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đồng chủ trì buổi công bố. Cùng dự, có đồng chí Đặng Thu Thủy, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Phó Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp; đại diện lãnh đạo Vụ Tổ chức Cán bộ, cơ quan thường trực Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Ủy ban; đại diện lãnh đạo các đơn vị được thanh tra. Buổi công bố quyết định thanh tra Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp Tại buổi công bố, đồng chí Đỗ Ngọc Toàn, Trưởng đoàn Thanh tra đã công bố Quyết định số 132/QĐ-BTĐKT ngày 2/6/2023 của Trưởng ban Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương quyết định thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng đối với Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp từ ngày 1/1/2021 đến ngày 31/12/2022. Thời hạn thanh tra là 45 ngày làm việc, kể từ ngày công bố quyết định thanh tra. Đồng chí Phạm Đức Toàn, Phó Trưởng ban Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương phát biểu tại buổi công bố Phát biểu tại buổi công bố, đồng chí Phạm Đức Toàn, Phó Trưởng ban Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương đề nghị Trưởng đoàn và các thành viên Đoàn Thanh tra chấp hành nghiêm quy chế hoạt động của Đoàn Thanh tra và các quy định pháp luật về thanh tra; phối hợp chặt chẽ với Vụ Tổ chức Cán bộ của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và các đơn vị được thanh tra, đảm bảo tiến độ, chất lượng, theo đúng kế hoạch. Đồng chí Hồ Sỹ Hùng, Phó Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Phó Chủ tịch Thứ nhất Hội đồng Thi đua – Khen thưởng Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp phát biểu tại buổi công bố Phát biểu tại buổi công bố, đồng chí Hồ Sỹ Hùng, Phó Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Phó Chủ tịch Thứ nhất Hội đồng Thi đua – Khen thưởng Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp thống nhất ý kiến của lãnh đạo Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương, của Trưởng Đoàn Thanh tra, phân công Vụ Tổ chức Cán bộ của Ủy ban làm đầu mối phối hợp; giao nhiệm vụ cho các đơn vị được thanh tra bố trí thành phần làm việc, chuẩn bị chu đáo nội dung, tài liệu, báo cáo theo quy định và thực hiện theo lịch làm việc đã thống nhất với Đoàn. Theo báo cáo tại buổi công bố, công tác thi đua, khen thưởng của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong năm 2021 và 2022 đã có nhiều đổi mới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức thực hiện phong trào thi đua và công tác khen thưởng. Thi đua, khen thưởng đã thực sự trở thành động lực của sự phát triển, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành các nhiệm vụ chính trị được giao. Trách nhiệm của cấp ủy Đảng trong chỉ đạo, tổ chức các phong trào thi đua được thể hiện rõ nét hơn. Hoạt động của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Ủy ban được kiện toàn và đi vào nền nếp, ổn định; công tác tham mưu cho lãnh đạo Ủy ban và Hội đồng Thi đua – Khen thưởng Ủy ban trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác thi đua, khen thưởng có nhiều đổi mới, chất lượng, hiệu quả hơn. Hầu hết các phong trào thi đua yêu nước đã được triển khai phù hợp với tình hình thực tiễn; nội dung thi đua được gắn với nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chuyên môn của từng đơn vị, doanh nghiệp thuộc Ủy ban; hình thức tổ chức phát động phong trào thi đua phong phú, đa dạng, đã động viên, thu hút được đông đảo cán bộ, đảng viên và người lao động tham gia, hưởng ứng tích cực và đạt kết quả khả quan trên các lĩnh vực. Công tác khen thưởng đảm bảo kịp thời, công khai, minh bạch, đúng điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định, đã chú trọng khen thưởng các tập thể nhỏ, công chức, viên chức không giữ chức vụ lãnh đạo quản lý, công nhân, người lao động trực tiếp sản xuất, kinh doanh và khen thưởng đột xuất cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ. Hằng năm, Ủy ban đều xây dựng kế hoạch giám sát công tác thi đua, khen thưởng tại các doanh nghiệp thuộc Ủy ban. Thông qua công tác giám sát đã kịp thời phát hiện những tồn tại, hạn chế trong công tác thi đua, khen thưởng và có giải pháp chỉ đạo khắc phục nhanh chóng, hiệu quả. Phương Thanh

Quy định phải rõ ràng, dễ thực hiện để khen đúng, trúng

Sáng 17/4, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương phối hợp với Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp tổ chức Hội thảo lấy ý kiến góp ý vào dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng. Quang cảnh hội thảo. Ảnh: Văn Điệp/TTXVN Trưởng Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương Phạm Huy Giang, Phó trưởng Ban soạn thảo Nghị định cho biết, Luật Thi đua, khen thưởng chính thức có hiệu lực thi hành vào ngày 1/1/2024, cùng với đó, sẽ có 10 nghị định có hiệu lực thi hành. Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng là nghị định quan trọng nhất để đưa Luật vào cuộc sống. Trong quá trình xây dựng Luật, Nghị định, Ban soạn thảo đã cố gắng cụ thể hóa những quy định, những vấn đề mới, tháo gỡ khó khăn, tuy nhiên chưa đáp ứng được hết các mong mỏi, gỡ được hết vướng mắc. Theo ông Hồ Sỹ Hùng, Phó Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thành viên Ban soạn thảo Nghị định, thực hiện văn bản số 766/BNV-BTĐKT của Bộ trưởng Nội vụ về lấy ý kiến dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng, Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đã ban hành Kế hoạch số 395/KH-UBQLV về tổ chức lấy ý kiến góp ý đến các đơn vị, doanh nghiệp thuộc Ủy ban. Căn cứ Kế hoạch của Chủ tịch Ủy ban, 19 tập đoàn, tổng công ty thuộc Ủy ban đã nghiên cứu dự thảo và triển khai lấy ý kiến đến các đơn vị thành viên trực thuộc. Tính đến ngày 11/4, tất cả các tập đoàn, tổng công ty đã gửi văn bản góp ý kiến vào dự thảo Nghị định. Tổng hợp ý kiến góp ý của các đơn vị, doanh nghiệp thuộc Ủy ban cho thấy, hầu hết đều cho rằng việc xây dựng Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng là cần thiết nhằm quy định chi tiết các điều khoản được giao trong Luật đảm bảo Nghị định có hiệu lực thi hành đồng thời cùng với hiệu lực thi hành của Luật; đảm bảo đầy đủ cơ sở pháp lý trong quá trình triển khi thực hiện Luật; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong tình hình mới. Cơ bản đồng tình, nhất trí với một số nội dung dự thảo Nghị định, song các ý kiến đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng và phù hợp với thực tiễn; đảm bảo cải cách thủ tục hành chính về thi đua, khen thưởng và nghiên cứu để kế thừa những nội dung hợp lý của Nghị định số 91/2017/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng mà trong Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 không quy định chi tiết, cụ thể. Các ý kiến đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, bổ sung quy định về hình thức tổ chức phong trào thi đua, nội dung tổ chức phong trào thi đua, tập thể không thuộc đối tượng tặng Cờ thi đua, về khen thưởng người đứng đầu đơn vị gắn với kết quả thành tích đạt được của tập thể, về khen thưởng thường xuyên, khen thưởng chuyên đề, khen thưởng đột xuất để làm điều kiện, tiêu chuẩn trình xét khen thưởng cấp Nhà nước, tỷ lệ % các tập thể tham gia cụm, khối thi đua được xét tặng Cờ thi đua cấp bộ, cấp tỉnh. Hầu hết các đơn vị thành viên thuộc các tập đoàn, tổng công ty đóng trên địa bàn các tỉnh, thành phố Trung ương đều tham gia cụm, khối thi đua do UBND tỉnh, thành phố tổ chức. Do vậy, cần quy định cụ thể về đối tượng xét Cờ thi đua của Chính phủ cho tập thể vừa tham gia phong trào thi đua do bộ, ban, ngành tổ chức hoặc phân cấp, ủy quyền cho các tập đoàn, tổng công ty tổ chức vừa tham gia cụm, khối thi đua do UBND tỉnh, thành phố tổ chức. Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Hoàng Quang Phòng đánh giá cao Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đã chủ động lấy ý kiến doanh nghiệp, có báo cáo tổng hợp phản ánh đúng tính chất tình hình công tác thi đua khen thưởng diễn ra trong thời gian qua và có những “điểm nghẽn” mà nghị định cần giải tỏa. Theo ông, công tác thi đua khen thưởng bao hàm đối tượng rộng, quy trình thực hiện phải chặt chẽ, khen thưởng phải trúng, đúng, có sức khích lệ cao, đánh giá tích cực, thực chất mỗi cá nhân, tổ chức được khen thưởng. Đồng ý cơ bản với nội dung của Nghị định, ông Phòng cho rằng, các quy định phải rõ ràng, dễ thực hiện, quản lý, kiểm tra được, khỏa lấp các khiếm khuyết trong công tác thi đua, khen thưởng. Công tác thi đua, khen thưởng là nhiệm vụ của toàn xã hội, bất kỳ công dân nào, cá nhân nào phát hiện thấy cá nhân, hiện tượng điển hình tiên tiến, sự việc tốt đều có thể đề xuất khen thưởng. Các hình thức khen thưởng đều cần được trân trọng. Đánh giá cao Ban soạn thảo đã dành một chương về xét tôn vinh trao tặng danh hiệu, giải thưởng cho doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác, ông đề nghị dự thảo cần làm rõ hơn vai trò của các tổ chức kinh tế - xã hội trong chủ động đề xuất, đề nghị, tham mưu khen thưởng, bổ sung điều về trách nhiệm của tổ chức kinh tế - xã hội trong việc chủ động đề xuất tham mưu khen thưởng. Nhấn mạnh “cộng đồng doanh nghiệp mong được khen trúng, khen đúng, theo ông, những nỗ lực của doanh nhân phấn đấu cho nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia cũng cần được ghi nhận và tôn vinh một cách phù hợp. Gần 900 nghìn doanh nghiệp đang đóng góp thiết thực cho sự phát triển của đất nước, khu vực này cần được tính đến một cách đầy đủ. Ông đơn cử, chúng ta đang thực hiện tuyến trình đề nghị khen thưởng theo bộ quản lý ngành, một doanh nghiệp có thể đầu tư kinh doanh tại nhiều địa bàn khác ngoài nơi đặt trụ sở chính. Do vậy, việc trình khen thưởng cần thực hiện theo hướng ở đâu trình cũng được, miễn là trình trúng, đúng để có cơ sở quyết định đúng. Trưởng Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương Phạm Huy Giang phát biểu. Ảnh: Văn Điệp/TTXVN Về vấn đề này, ông Phạm Huy Giang cho biết, quy định về tuyến trình hiện đã mở rộng nhiều, doanh nghiệp lập thành tích ở đâu, nơi đó có thể đề nghị và khen thưởng. Phó Giám đốc Công ty Điện lực Bến Tre Trần Quang Tâm nêu thực tế, theo quy định hiện hành, doanh nghiệp cùng lúc tham gia cụm thi đua tại địa phương và ngành dọc, hàng năm được xét Cờ thi đua của UBND theo cụm thi đua tại tỉnh và Cờ thi đua của Chính phủ, của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo ngành dọc. Tuy nhiên, khi xét khen thưởng cấp nhà nước, chỉ được lấy danh hiệu thi đua và thành tích theo hệ thống ngành dọc làm căn cứ xét khen thưởng. Vì vậy, công ty đạt thành tích và được khen thưởng khi tham gia khối thi đua của tỉnh nhưng lại chưa được chấp nhận làm căn cứ trình xét khen thưởng cấp nhà nước, trong khi việc ghi nhận kết quả khen thưởng này là toàn diện các mặt của đơn vị. Điều này chưa khuyến khích, chưa tạo được động lực cho doanh nghiệp ngành dọc đóng trên địa bàn tham gia phong trào thi đua do tỉnh phát động. Ông đề nghị dự thảo Nghị định bổ sung quy định chấp thuận các hình thức khen thưởng của UBND tỉnh cho các doanh nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn có thành tích tiêu biểu, xuất sắc dẫn đầu cụm khối thi đua của tỉnh làm căn cứ trình xét khen thưởng cấp nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thêm động lực ra sức thi đua, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Theo TTXVN

Nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Quản lý nhà nước về công tác thi đua trong giai đoạn hiện nay”

BTĐKT – Ngày 30/3, tại Hà Nội, Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước (Bộ Nội vụ) tổ chức nghiệm thu chính thức đề tài khoa học cấp Bộ “Quản lý nhà nước về công tác thi đua trong giai đoạn hiện nay” do ThS. Bùi Quang Đức, Phó Trưởng phòng Phòng Pháp chế - Thanh tra, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương làm Chủ nhiệm. Hội đồng đánh giá, nghiệm thu đề tài gồm 7 thành viên, do PGS. TS Văn Tất Thu, Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ làm Chủ tịch Hội đồng. Cùng dự buổi nghiệm thu, có đồng chí Phạm Đức Toàn, Phó Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương; đại diện lãnh đạo, chuyên viên một số phòng, đơn vị thuộc Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương. PGS. TS Văn Tất Thu, Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch Hội đồng, chủ trì  nghiệm thu đề tài Quản lý nhà nước với công tác thi đua có vị trí, vai trò quan trọng trong tổ chức thành công các phong trào thi đua yêu nước. Để từ đó có cơ sở khách quan, khoa học trong việc kịp thời khen thưởng đúng người, đúng việc mới làm cho phong trào thi đua phát triển và đạt hiệu quả, chất lượng cao, trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển. Thực hiện tốt công tác thi đua sẽ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mỗi cá nhân, phát huy ý chí quyết tâm, tinh thần đoàn kết của tập thể,của toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. ThS. Bùi Quang Đức, Phó Trưởng phòng Phòng Pháp chế - Thanh tra, Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương trình bày báo cáo tóm tắt kết quả nghiên cứu đề tài Đề tài khoa học cấp Bộ “Quản lý nhà nước về công tác thi đua trong giai đoạn hiện nay” nghiên cứu, hệ thống hóa những thành tựu đã có trong nghiên cứu công tác thi đua ở nước ta. Trước hết, từ tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng ta và từ các văn kiện Đảng, đề tài đã phân tích chỉ ra cơ sở lý luận và sự cần thiết của việc tăng cường quản lý nhà nước về thi đua. Đề tài tập trung vào nội dung thi đua là chủ yếu, song thi đua và khen thưởng là hai vấn đề có mối quan hệ gắn bó, biện chứng với sự tác động qua lại lẫn nhau rất sinh động trong thực tiễn. Bởi vậy, đề tài này cũng chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa tổ chức phong trào thi đua và công tác khen thưởng và cho thấy từ mục tiêu, phương hướng, thực trạng và giải pháp về quản lý nhà nước với công tác thi đua đều không thể tách rời với công tác khen thưởng. Chương 1 đã phân tích về 8 nội dung cơ bản trong quản lý nhà nước về công tác thi đua. Đó chính là kim chỉ nam, cơ sở lý luận của đề tài “Quản lý nhà nước về công tác thi đua trong giai đoạn hiện nay”. Đề tài đã làm rõ thực trạng tại 8 vấn đề cơ bản quản lý nhà nước diễn ra trong thời kỳ đổi mới từ năm 2003 đến năm 2022, cụ thể là: Công tác ban hành các văn bản pháp luật về thi đua; công tác xây dựng chính sách về thi đua; công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác thi đua; công tác sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua, đánh giá hiệu quả công tác thi đua; công tác nâng cao chất lượng thẩm định hồ sơ trình xét danh hiệu thi đua; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý công tác thi đua; công tác hợp tác quốc tế về công tác thi đua; công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về thi đua; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về thi đua trong giai đoạn hiện nay. Các đại biểu dự nghiệm thu chụp ảnh lưu niệm Đề tài đã đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế trong thực trạng quản lý nhà nước về công tác thi đua từ năm 2003 đến năm 2022, vạch ra những vấn đề cần giải quyết trong quản lý nhà nước về công tác thi đua trong giai đoạn tới từ năm 2022 đến năm 2030. Từ trình bày, đánh giá đúng thực trạng quản lý nhà nước về công tác thi đua từ năm 2003 đến năm 2022, đề tài đã đề xuất 8 giải pháp, đề xuất 6 kiến nghị tăng cường quản lý nhà nước về công tác thi đua trong thời gian tới (từ năm 2022 - 2030). Những kiến nghị, giải pháp này đều có tính khả thi, cùng với toàn bộ các sản phẩm của đề tài “Quản lý nhà nước về công tác thi đua trong giai đoạn hiện nay” sẽ có thể là một đóng góp thiết thực vào việc tăng cường quản lý nhà nước về công tác thi đua trong giai đoạn hiện nay. Hội đồng nghiệm thu đề tài đánh giá Nhóm nghiên cứu đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản của quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng. Bên cạnh đó, đã đánh giá được thực trạng quản lý nhà nước về công tác thi đua, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó. Các số liệu kết quả điều tra khá phong phú. Ngoài ra, Nhóm nghiên cứu đã đề xuất được những giải pháp, phương án và kiến nghị cụ thể trực tiếp làm cơ sở khoa học cho việc  đổi mới quản lý nhà nước về công tác thi đua trong giai đoạn hiện nay. Nhìn chung, các giải pháp khá toàn diện có tính khả thi cao, nội dung lý luận, thực trạng giải pháp khá nhất quán, bám sát các nội dung quản lý nhà nước,… Phát biểu kết luận buổi nghiệm thu, trên cơ sở thống nhất ý kiến của các thành viên Hội đồng, PGS.TS. Văn Tất Thu, Chủ tịch Hội đồng đánh giá cao sự cố gắng của Nhóm nghiên cứu, cho rằng đây là công trình nghiên cứu khoa học được thực hiện công phu, nghiêm túc, hoàn thành tốtmục tiêu và các nhiệm vụ nghiên cứu đề ra. Tuy nhiên, Nhóm nghiên cứu cần phải tiếp thu các ý kiến góp ý của Hội đồng nghiệm thu để bổ sung, hoàn thiện các nội dung của Đề tài. Đề tài đã được Hội đồng nghiệm thu đánh giá xếp loại: Đạt. Phương Thanh    

Trang